Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VII: Kết luận

06/05/201320:02(Xem: 4349)
Chương VII: Kết luận

Sống Và Chết

Chương VII: Kết Luận

Thích Như Điển

Nguồn:Thích Như Điển


Mùa an cư kiết hạ năm nay -Phật lịch 2542 - dương lịch 1998, riêng tôi có những niềm vui và cũng có nhiều nỗi buồn bình thường như bao nhiêu nỗi buồn của nhân thế. Vui là vui cái gì và tại sao một người đã xuất gia học đạo 35 năm rồi, còn buồn cái gì nữa? Đây là câu trả lời.

Niềm vui đầu tiên là năm nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đã tổ chức được khóa an cư kiết hạ ngắn hạn 10 ngày từ ngày 11 tháng 7 đến 21 tháng 7 năm 1998 tại Hannover, Đức Quốc. Có 50 Tăng Ni và 30 Cư sĩ tòng hạ tu học. Đây là niềm vui lớn nhất của tôi. Vì xây chùa xong, công việc tiếp Tăng độ Chúng không thể thiếu được. Nếu một ngôi chùa lớn, mà không có hình bóng của Tăng sĩ, quả là điều đáng tiếc vô cùng. Mặc dầu chúng lý thường trực tại chùa Viên Giác cũng tăng giảm từ 18 đến 20 người; nhưng Tăng chúng càng đông, chùa càng có nhiều nếp sinh hoạt đặc thù hơn. Vì "Đức chúng như hải" mà.

Hầu hết quý vị tôn túc, trên từ Hòa Thượng Trưởng Ban Điều Hành Giáo Hội; Thượng Tọa Trưởng và Phó Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự; Thượng Tọa Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục; Thượng Tọa Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ v.v... đều có mặt. Tăng chúng của 2 chùa Khuông Việt - Na Uy, và Viên Giác - Đức Quốc, có số lượng đông nhất. Năm nay quý Thầy Tỳ Kheo đã đi trù trì các chùa khắp nơi tại Âu Châu cũng đã vân tập về đông đủ tòng hạ trong 10 ngày. Không khí của ngôi chùa Viên Giác nhộn nhịp hẳn lên, không phải vì sự huyên náo mà là không khí tu học cũng như nghiêm trì giới luật của một người xuất gia.

Về tu học và hành đạo được chia ra những thời khóa rõ rệt như sau:

- Sáng từ 5 giờ 30 đã được thức chúng

- 5 giờ 45 mọi người đều vân tập lên Tổ Đường, đảnh lễ chư vị Tổ Sư, sau đó chư Tăng Ni đăng lâm bảo điện hô canh và tọa thiền.

- Đúng 6 giờ trì tụng thần chú Thủ Lăng Nghiêm

- Từ 7 giờ đến 8 giờ là giờ chấp tác công việc trong chùa của chúng Sa Di và Sa Di Ni.

- Đúng 8 giờ mọi người vân tập nơi trai đường để dùng điểm tâm.

- Từ 9 giờ đến 10 giờ 30 chúng Sa Di và Sa Di Ni chia phiên trực hành đường chuẩn bị cho giờ ngọ trai, trong khi đó quý Thầy Tỳ Kheo và quý cô Tỳ Kheo Ni vân tập nơi phòng họp để nghe quý Thầy đi trước truyền đạt các kinh nghiệm ra làm việc Đạo. Những khó khăn trở ngại, những thuận duyên và những thử thách cũng được trình bày cặn kẽ, tỉ mỉ để rút ra những ưu khuyết điểm cho chính cá nhân từng vị. Lớp nầy do Hòa Thượng Chủ Tịch, Thượng Tọa Tăng Sự, Thượng Tọa Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục và chúng tôi phụ trách. Năm nay, đây là lần đầu tiên có lớp "Như Lai Sứ Giả" nầy.

- Đúng 11 giờ trưa Tăng chúng lại vân tập nơi trai đường để thọ trai và kinh hành nhiễu Phật. Sau đó nghỉ giải lao cho đến 14 giờ 30.

- Từ 14 giờ 30 đến 16 giờ cả chúng Tỳ Kheo và Sa Di, Sa Di Ni đều được học tập. Chúng Tỳ Kheo trao đổi kinh nghiệm tại phòng hội họp, trong khi đó chúng Sa Di và Sa Di Ni cũng như những vị Cư sĩ tòng hạ học tại giảng đường của nhà Đông do Thượng Tọa Thích Nhất Chơn hướng dẫn.

- Đến 17 giờ chiều chánh điện của chùa Viên Giác lại vang lên tiếng kinh cầu nguyện cho âm được siêu và dương được thái. Tiếng chuông u minh cũng đã dẫn hồn người quá cố về chùa nghe kinh để tìm phương giải thoát. Đây là giờ thí thực cô hồn. Một nghi lễ thể hiện lòng từ bi của người sống đối với kẻ đã qua đời không có nơi nương tựa; thường được cử hành mỗi ngày tại các chùa ở Việt Nam cũng như ngoại quốc.

- 18 giờ 30 chư vị Tăng Ni dùng cháo hoặc dùng những món ăn nhẹ.

- Đúng 20 giờ tất cả Tăng Ni và Phật Tử vân tập lên chánh điện để lạy kinh Đại Bát Niết Bàn, mỗi chữ mỗi lạy và mỗi tối như vậy thường lạy khoảng 300 lạy. Kinh Đại Bát Niết Bàn là một bộ kinh tối thượng thừa gồm 2 quyển, khoảng gần 2.000 trang chữ nhỏ. Nếu muốn lạy hết bộ kinh nầy phải cần 10 đến 15 năm trong mùa an cư kiết hạ. Chùa Viên Giác đã lạy kinh nầy bước sang năm thứ 3 rồi, hơn 240 trang sách đã được phụng trì một cách rất trang trọng. Đây là một công hạnh tu hành để phát sinh phước đức và trí tuệ mà cả Tăng lẫn Tục đều có thể thọ trì.

Một ngày trôi qua nhanh như thế, mọi người lại nghỉ ngơi, để tiếp tục công việc của ngày khác. Thế là 10 ngày trôi qua một cái vèo. Đúng là "Bóng câu qua cửa sổ". Tăng chúng lại luyến tiếc không khí tu học nầy nên đã đề nghị sang năm, sang năm nữa và những năm kế tiếp an cư 2 tuần hoặc lâu hơn. Điều ấy đã được Thượng Tọa Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự hài lòng và tán đồng, nên duy trì truyền thống tốt đẹp nầy.

Rồi khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 10 đã được tổ chức tại Glaubenberg, Thụy Sĩ, trong 10 ngày từ 23 tháng 7 đến 1 tháng 8 năm 1998, gồm có 500 Phật Tử và 50 Tăng Ni tham dự, đến từ 14 nước trên thế giới, đa phần từ Âu Châu. Năm nay cũng là năm kỷ niệm 10 năm việc Phật sự chung nầy. Quý Thầy và quý Phật Tử lại vân tập về nơi núi đồi trùng điệp nầy để sống những ngày cho tâm linh thật đầy đủ ý nghĩa.

Chương trình học có 5 lớp. Đầu tiên là lớp Oanh Vũ, gồm các em nhỏ theo cha mẹ đi học khóa Giáo Lý tuổi từ 5 đến 14. Lớp nầy được quý Thầy Chúc Nhuận, Cô Từ Khánh, Chú Hạnh Định và Cô Viên Chân phụ trách về vấn đề giáo lý và các anh chị Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ cũng như Âu Châu chịu trách nhiệm về vấn đề sinh hoạt của các em, gồm trò chơi, ăn uống, học tiếng Việt, sinh hoạt cộng đồng v.v...

Lớp 1 là lớp Giáo Lý Căn Bản cho những vị mới làm quen với Đạo. Mấy năm trước chỉ có một số quý Đại Đức đảm trách; nhưng năm nay quý Thượng Tọa cũng có giờ hướng dẫn cho lớp 1 nầy. Các giờ học của các lớp đều giống nhau. Nghĩa là mỗi một lần học như vậy có 5 hay hơn nữa, quý Thầy lo đảm trách trực tiếp. Ví dụ sáng từ 9 giờ 30 đến 11 giờ. Chiều từ 4 giờ đến 5 giờ rưỡi và tối từ 9 giờ tới 10 giờ rưỡi. Ngoài 3 lần học ra, các khóa sinh phải theo 4 thời khóa công phu sáng vào lúc 6 đến 7 giờ. Quá Đường từ 12 đến 13 giờ. Lễ Cầu An từ 15 đến 16 giờ và lễ Tịnh Độ từ 20 đến 21 giờ. Ngoài ra các khóa sinh phải vào 1 trong 3 Ban như Trai Soạn, Hành Đường và Vệ Sinh để thực tập, học hỏi và đóng góp phần vụ của mình vào trong công việc chung để được công đức.

Lớp 2 là lớp chuyên khoa, mỗi năm học một bộ kinh. Năm nay Thượng Tọa Thích Nhất Chơn, Đặc Ủy Giáo Dục có dạy về Giới Tướng và Giới Pháp cho cả 2 lớp. Đặc biệt có Thượng Tọa Thích Phước Nhơn từ Úc đến đào sâu về pháp môn Tịnh Độ. Riêng tôi, hướng dẫn Phật Tử một phần nhỏ trong kinh Bảo Tích về Bồ Tát Đạo. Thượng Tọa Thích Thiện Huệ giảng về Long Thơ Tịnh Độ. Đây là 4 Thầy giảng sư chính của lớp 2 của Khóa Tu Học năm 98 nầy.

Năm nay lớp cho Sa Di, Sa Di Ni học riêng. Lớp nầy cũng do Hòa Thượng Chủ Tịch và quý Thượng Tọa lớn trong Giáo Hội hướng dẫn. Riêng tôi có hướng dẫn lớp nầy về Oai Nghi Tế Hạnh và Sám Ngã Niệm bằng chữ Hán. Năm nay quý Chú và quý Cô độ gần 30 vị; nên không khí học có vẻ cởi mở vui tươi hào hứng hơn mọi năm.

Cuối cùng là khóa dành cho quý vị Tỳ Kheo đã đi trụ trì một số Tự Viện tại Âu Châu. Thông thường các năm khác không có khóa nầy; nhưng năm nay sau 10 ngày an cư tại Viên Giác, khóa nầy vẫn còn âm hưởng; nên quý Thầy Tỳ Kheo đề nghị được tiếp tục học và trao đổi kinh nghiệm trong khi làm việc Đạo, việc Hội. Lớp nầy độ chừng 15 vị do Hòa Thượng Chủ Tịch, Thượng Tọa Tăng Sự, Thượng Tọa Nhất Chơn, Thượng Tọa Thiện Huệ, Thượng Tọa Phước Nhơn và chúng tôi đảm trách. Đa phần giải đáp những khó khăn mà quý vị Đại Đức nầy khi ra làm việc Đạo đã gặp phải. Không khí tu học rất tươi trẻ và từ sang năm trở đi, khóa nầy vẫn được duy trì.

Trong khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 10 năm nay có một phiên họp của chư Tăng trong Giáo Hội, có một phiên họp của Tổng Vụ Cư Sĩ và một khóa hội thảo của ngành Thiếu, Gia Đình Phật Tử Âu Châu. Trong phiên họp của Giáo Hội Âu Châu kỳ nầy có mấy quyết định của Tổng Vụ Tăng Sự cũng rất phù hợp với sự tu học ngắn hạn như sau:

- Kể từ năm 1999 trở đi, nhân mùa hạ khai mở tại chùa Viên Giác, Hannover - Đức Quốc, vào tháng 7, sẽ cho xuất gia gieo duyên cho quý Phật Tử nào phát tâm xuống tóc trong vòng 2 tuần lễ để báo hiếu, hoặc để tròn lời nguyện. Hoặc giả xuất gia cả đời không được, thì cũng có thể tu trong một thời gian ngắn như thế.

- Cũng kể từ năm 1999 trở đi các giới tử thọ Bồ Tát Giới ăn chay trường và sống cuộc sống thanh tịnh, không có gia đình, được Tổng Vụ Tăng Sự chuẩn cho đắp y màu nâu, tu tại gia.

- Những vị nào thọ Bồ Tát Giới mà chỉ lãnh 6 giới trọng và 28 giới nhẹ, chỉ ăn chay 10 ngày thì chỉ được đắp y màu đen trong mùa an cư kiết hạ tại chùa Viên Giác và khóa Giáo Lý Âu Châu mà thôi. Sau đó y áo sẽ do Tổng Vụ Tăng Sự thâu lại cất giữ, sang năm kế tiếp lại được nhận lại.

Y của quý Phật Tử tại gia thọ Bồ Tát Giới cả màu nâu lẫn màu đen đều do Giáo Hội Âu Châu cấp phát, chứ không phải tự ý may lấy. Sẽ có thông báo của Tổng Vụ Tăng Sự gởi đến quý Đạo Hữu nay mai.

Hai đêm văn nghệ bộc phát rất là hào hứng. Một đêm được tổ chức vào giữa khóa tu học, trong lúc quý Thầy họp Giáo Hội, thí sinh nghỉ xả hơi; nghe nói cũng rất thành công. Nội dung phong phú; nhưng nghe đâu không bằng đêm văn nghệ lúc bế giảng. Sau lễ bế giảng có lễ kỷ niệm 10 năm, cắt bánh sinh nhật và tối hôm đó là một đêm tuyệt vời đối với chư Tăng Ni cũng như các khóa sinh. Chương trình chi tiết của Ban Văn Nghệ không được sắp đặt trước. Tuy nhiên rất hòa nhịp ăn khớp vô cùng. Đại Đức Lệ Nguyên làm xướng ngôn viên bên giới Tăng sĩ thì Thị Hiện Nguyễn Hữu Lộc làm xướng ngôn viên cho Cư sĩ. Đây là Đạo Đời 2 ngả cũng giống như Tân Cổ giao duyên vậy. Ai nghe cũng cười ngả nghiêng ngả ngửa và những tràng pháo tay tán thưởng nổ lốp đốp liên hồi, dường như kéo dài trong vô tận. Cứ 2 màn do Gia Đình Phật Tử đóng góp thì có một màn của chư Tăng phụ họa vào. Đây là lần đầu tiên có đêm văn nghệ như thế, chưa đâu có được và có lẽ cũng không bao giờ được diễn trên một sân khấu công cộng như đêm văn nghệ của Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 10 vừa rồi. Kẻ vọng cổ; người ngâm thơ. Kẻ hát tân nhạc, người đánh đàn, thổi sáo. Các em Oanh Vũ thì múa những điệu vừa mới tập, trông nóng hổi và hoạt náo vô cùng.

Thế rồi ngày chia tay cũng đã đến. Mọi người ngày hôm sau, ai nấy cũng bùi ngùi luyến tiếc, giã từ nơi núi đồi trùng điệp nầy. Giã từ những người bạn đạo thân thương. Giã từ những giờ tu học chung Thầy, chung lớp. Giã từ tiếng kinh lời kệ. Giã từ tiếng trẻ thơ chờ mẹ trong giờ sinh hoạt của Oanh Vũ. Thế là mọi người ra về. Ai ai cũng nặng trĩu cõi lòng, phải chờ một năm sau nữa mới có cơ hội trùng phùng trong 10 ngày ngắn ngủi như thế. Có cuộc vui nào lại chẳng tàn đâu? Có cuộc sống nào cứ kéo dài mãi không chấm dứt? Có cái gì tốt đẹp được cấu tạo bằng hình tướng trên đời nầy còn mãi đâu? Thôi thì cái gì của nhân thế, xin trả về với nhân thế. Đời là thế. Vì cuộc đời là thế. Có hợp thì có tan. Trăng có tròn thì có khuyết. Người có còn cũng là lúc phải chuẩn bị biệt ly. Tất cả đều giả tướng, tất cả đều bị vô thường biến đổi.

Trên đây là những tin vui và dưới đây là những tin buồn. Sau khi về lại Đức, huân tu trong những ngày an cư còn lại, bầu trời Đức Quốc lại ảm đạm hơn. Tin từ Việt Nam cho hay Hòa Thượng Bổn Sư của tôi bị cơn bịnh hoành hành và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Thế là lo âu, thấp thỏm lại đến. Bởi vậy sự vô thường là thế. Có đó rồi mất đó. Cái gì liên hệ trực tiếp với mình thì cái đó bị ảnh hưởng, bị lôi kéo, bị dán chặt vào. Nếu vô thường xảy ra với một kẻ khác thì mình trở thành khách bàng quan, không lưu tâm đến. Vì nghĩ rằng vô thường chưa đến với mình, do vậy mà không lo tu học hoặc sửa soạn cho ngày về; nhưng khi chúng đến rồi thì bao nhiêu loại nghiệp chướng khác lại đổ ra.

Các vị Bồ Tát, chư vị A La Hán lấy cái khổ của chúng sanh làm cái khổ của mình để tu tiến, hành đạo. Do vậy mà dưới mắt các Ngài không bị trói buộc vào một đối tượng nào nhất định cả. Tình thương rải đều cho mọi người và mọi loài chứ không bị đóng khung như tình yêu. Tình yêu là vị kỷ, tình thương là vị tha. Tình yêu bị đóng khung trong hình vuông, hình tròn, hình thoi hay hình chữ nhật. Ngược lại tình thương thì giải phóng ra khỏi sự nô lệ của 4 bức tường nầy. Tình thương là sự cởi trói cho mọi ràng buộc của thế nhân. Tình thương là mong được cho và tình yêu là mong được nhận. Một bên tượng trưng cho vị tha và rõ ràng bên khác tượng trưng cho vị kỷ. Đây là một bài học mà ai trong chúng ta cũng có thể học thuộc lòng; nhưng thực hiện được bài đó, mỗi người lại có mỗi phương thức khác nhau.

Từ khi xuất gia với Thầy, đến năm nay (1998) là đúng 35 năm. Trong 35 năm ấy hình ảnh của Thầy tôi có lúc gần, có lúc xa. Vì suốt trong khoảng thời gian ấy, tôi chỉ ở với Thầy có 2 năm. Trong 2 năm trường đó tuy Thầy tôi không dạy trực tiếp bằng lời; nhưng gián tiếp qua hành động, cử chỉ v.v... tôi đã học được từ Thầy tôi rất nhiều. Thầy là một con người rất cương nghị, không dễ dãi nhường bước bất cứ một sự khó khăn nào. Trên đường tu, Thầy đã thành công ở nhiều lãnh vực; nhưng Thầy cũng đã bị chông chênh ở nhiều vị thế khác nhau. Đúng là mỗi chúng sanh khi sinh ra đời, nghiệp lực của mỗi người mỗi khác là vậy. Thầy rất am tường về nhiều phương diện như tổ chức, xã hội v.v... nhưng về phần hành trì để sinh cái đức phía bên trong, Thầy tôi bị thời gian và hoàn cảnh chi phối, do vậy mà những cái nghiệp khác nó trói buộc Thầy. Điều nầy tự Thầy biết rõ hơn ai hết; nhưng Thầy chỉ chấp nhận mà thôi. Có lẽ Thầy nghĩ rằng đó là một định nghiệp mà Thầy phải trả. Thầy sinh năm 1927 tại Hội An, trong một gia đình nho giáo. Ông anh Thầy làm Dân Biểu Hạ Nghị Viện thời trước năm 1975. Cũng có tiếng tăm lừng lẫy một thời. Hội An là cái xứ khổ sở muôn bề; nhưng Thầy cũng đã chống chọi với bao thử thách của hoàn cảnh và thời cuộc. Tôi kém thua Thầy 23 tuổi; nhưng ngày ấy khi mới vào chùa, thấy Thầy vĩ đại quá, cao thượng quá và tôi, một chú bé nhà quê chỉ biết làm theo những khuôn mẫu mực thước đã có trước mà thôi. Ngày xuất gia của tôi là ngày 15 tháng 5 năm 1964; nhưng sau đó phải ra Tổ Đình Phước Lâm ở với Thượng Tọa Thích Như Vạn từ 1964 đến 1966. Vì lẽ Thầy tôi phải đi Sàigòn để chữa bịnh. Tôi đã học được ở Thầy Như Vạn cũng nhiều và sau đó tôi lại rời Tổ Đình Phước Lâm về chùa Viên Giác ở từ 1966 đến 1968 rồi tiếp tục xuôi Nam và năm 1972 lại ra ngoại quốc cho đến ngày nay.

Tôi được biết Thượng Tọa Thích Như Vạn viên tịch vào năm 1977 tại Hội An qua lần thăm viếng chùa Tam Bảo tại Montréal, Canada, 1979. Những năm 75 đến 80 hầu như có rất ít tin tức từ Việt Nam sang ngoại quốc. Nhớ lúc ấy khi tôi còn ở Nhật mỗi lần thư đi từ Việt Nam qua Nhật phải tốn đến 6 tháng trời. Nhìn kỹ dấu bưu điện thì thư đi qua Trung Quốc, sang Nga rồi mới vào Nhật. Khi thư đến Nhật, nhìn thấy lá thư nhưng chữ nghĩa đã phai màu và giấy viết thư cũng quá xấu. Nhìn sự phát triển của Việt Nam vào cuối thập niên năm 70, tôi sửng sốt. Vì lúc ấy Nhật Bản là một cường quốc kỹ nghệ trên thế giới mà. Cũng vì tin tức không có, cho nên sự ra đi của vị ân sư Thượng Tọa Thích Như Vạn tôi không được biết. Mãi đến năm 79 mới hay tin và nay thì cũng đã gần 20 năm rồi. Thời gian trôi qua nhanh quá, mới đó mà đã 20 năm rồi. Thế sự nhiều đổi thay; nhưng ân sư Thầy Tổ lúc nào cũng ở canh cánh bên lòng của tôi, tựa hồ như việc mới ngày nào. Ở tôi ân nghĩa nặng trĩu hai vai, dầu cho đến tự bao giờ cũng không thể nào quên được. Như Ngài Thật Hiền người Trung Hoa đã phát nguyện trong "Phát Bồ Đề Tâm", đối với ơn Tam Bảo, Cha Mẹ, Thầy Tổ, Quốc Gia, Xã Hội v.v... phàm mỗi chúng sanh sinh ra trong đời nầy, không ai có thể sống độc lập được, mà mỗi người phải sống nương tựa vào kẻ khác ở mỗi phương diện khác nhau.

Trong 24 oai nghi của một người tu, trong ấy có mấy phép dạy thờ Thầy, cung phụng Thầy lúc đau ốm cũng như khi già yếu, khi ra đi v.v... ai mà thực hành kỹ càng cung cách nầy cũng không khác gì Phật Giáo Tây Tạng mấy. Ở Phật Giáo Tây Tạng, đặc biệt về Lamring, tức tiệm tu - họ xem Thầy còn hơn Phật. Vì Phật đã đi vào quá khứ, chỉ có Thầy mới là thay mặt Phật dạy cho ta mọi lý lẽ của cuộc đời. Mọi tình thương, mọi sự hiểu biết cũng từ đây mà sanh. Do vậy mà Phật Giáo Tây Tạng rất quan tâm về lãnh vực nầy cũng giống như Phật Giáo Nhật Bản thờ hình ảnh của các vị Tổ Sư khai tông lớn hơn Phật vậy. Việt Nam thì không đặc biệt như thế. Vì Phật, đối với người Phật Tử Việt Nam rất quan trọng nên thờ ở giữa chánh điện. Tổ quan trọng thứ 2 nên thờ Tổ sau lưng Phật. Còn Thầy cũng quan trọng; nhưng vào hàng thứ 3. Việt Nam không thờ Thầy trên Tổ, thờ Tổ trên Phật như Phật Giáo Tây Tạng và Nhật Bản được. Có thể nói rằng Phật Giáo Việt Nam có những nét đặc thù khác hơn các nước theo Phật Giáo trên thế giới.

Hình ảnh của Thượng Tọa Thích Như Vạn giống như một người mẹ hiền. Thầy người gầy gò ốm yếu; nhưng cũng rất cương nghị. Bất cứ một việc gì Thầy đã đề xướng ra, Thầy đều tận tụy làm cho xong việc. Đây là một đặc tính rất quan trọng mà cá nhân tôi đã ảnh hưởng được lúc thiếu thời. Đây cũng là những dấu ấn, in rất đậm nét lúc tuổi còn thơ. 15 tuổi lúc ấy là cái tuổi còn rất hồn nhiên để tiếp nhận những gì cao quý nhất trong khi học đạo lúc ban đầu. Ngày nay Thầy đã ra đi; nhưng trong tôi, hình bóng Thầy vẫn còn sáng ngời hiển hiện. Dầu Thầy ở thế giới nào đi chăng nữa, hình ảnh của Thầy vẫn luôn ở mãi bên con và mấy ngày nay tôi lại được tin Sư phụ mình chuẩn bị ra đi vĩnh viễn, như bao sự ra đi khác của nhân thế. Cho nên tôi đã chuẩn bị tương đối đầy đủ những gì phải chuẩn bị lúc Thầy chưa ra đi. Chắc chắn một ngày rất gần, Thầy phải ra đi. Tôi đã gởi Hạnh Tấn và Hạnh Nguyện, hai người đệ tử đầu đang ở Ấn Độ về lại Việt Nam để hầu Sư Ông trong những ngày còn lại. Riêng phận mình, mặc dầu là Trưởng Tử nhưng không gian cách trở và thời gian không cho phép nên cố quốc vẫn còn xa và ngày về lại quê xưa, cận kề bên Thầy Tổ, thăm ngôi chùa xưa, đảnh lễ nơi chân tháp của Thầy vẫn còn là một niềm hy vọng lớn lao vẫn còn giữ mãi nơi cõi lòng mà chưa thực hiện được.

Cuộc thế xoay vần, sự sống chết là lẽ đương nhiên. Do vậy chuẩn bị sự ra đi cho mình hay cho người vẫn là một điều đáng làm trước. Vì trước sau gì, chúng ta cũng phải đi qua con đường ấy. Đó là một sự thật mà ít người muốn chấp nhận; nhưng sự thật bao giờ cũng là sự thật. Sau đây là bài điếu văn của môn đồ hiếu quyến do tôi soạn và Hạnh Tấn sẽ đọc bên kim quan của Thầy sau khi Thầy đã vĩnh viễn ra đi:

Ngưỡng bạch Giác linh Ân Sư

Chúng con đại diện cho môn đồ, đệ tử pháp quyến tại chùa Viên Giác, Đức Quốc, xin bái vọng về ân sư nơi quê hương nghìn trùng xa cách để nói lên tấm lòng của một người đệ tử đã theo Thầy xuất gia học đạo, nay đã đúng 35 năm trường.

Thời gian có Xuân, Hạ, Thu, Đông. Không gian có Đông, Tây, Nam, Bắc; nhưng với con trong hiện tại, vũ trụ như ngừng quay và bầu trời không một vì sao sáng. Dẫu biết rằng: Sống Gởi Thác Về và thân tứ đại trả về cho tứ đại; nhưng ai đâu ngờ rằng, qua tuổi thất thập cổ lai hy, Thầy đã vội lìa nơi trần thế. Tâm hành Bồ Tát đạo chưa mãn, thân thể hiện hạnh từ bi chưa xong mà vô thường đã vội đến, để cho chúng con hàng đệ tử, đệ tôn nơi phương trời xa lạ và ở nơi cố quốc thân yêu nầy mất đi một bậc ân sư và chắc chắn rằng chúng con không có cơ hội trùng phùng nữa.

Suốt 35 năm tu học, mà con chỉ ở với Thầy được 2 năm từ 66 đến 68. Thời gian nầy Thầy đã đa đoan Phật sự đối với Giáo Hội; nhưng vấn đề thân giáo, khẩu giáo và ý giáo của Thầy đối với chúng con không bao giờ thiếu sót. Thầy không bao giờ la và quở phạt đệ tử của Thầy một cách nặng lời; nhưng đệ tử nào nhìn những cử chỉ im lặng của Thầy cũng đủ biết rằng Thầy không vừa ý, lại phải sám hối, lại phải làm tròn bổn phận của mình.

Kính bạch giác linh Thầy

Lẽ ra con phải về đây, cận kề bên kim quan của Thầy để làm tròn bổn phận là người đệ tử đối với Sư Phụ; nhưng như Thầy đã biết, không gian cách trở và hoàn cảnh chưa thuận duyên; nên con đành ở chốn trời Tây, xin ngưỡng vọng về giác linh Thầy và đệ tử của con sẽ đọc lên những lời nầy thế con, trong lúc con vắng mặt. Kính mong Thầy chứng giám cho.

Cây có cội, nước có nguồn là vậy. Dù ai đi đâu và sống bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu nầy; nếu không có cha mẹ sinh thành; nếu không có ân sư giáo dưỡng thì không nên người được. Từ câu "ẩm thủy truy nguyên" nầy mà con luôn vọng về quê hương cũng như cố quốc để nói lên nỗi niềm cô lữ khi ân sư đã theo Phật về Tây. "Thầy là bóng cây che mát chúng con. Thầy là ánh sáng dắt dìu lòng con...". Thầy là sự sống của mọi người, Thầy che chở mọi người như bóng mát của cây đa chùa Viên Giác vẫn chở che mưa nắng cho mọi người được nhờ. Bây giờ Thầy đã ra đi, ra đi vĩnh viễn không có ngày trở lại; nhưng chúng con cũng mong rằng với hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát, mong Thầy trở lại trần gian đầy khổ đau tục lụy nầy, sớm gặp được nhiều an lạc trong cuộc sống. Vì cuộc đời còn khổ đau thì bản hoài của chư Tổ Sư và chư vị Bồ Tát chưa hoàn thành. Dưới một hình thức nào đó, chúng con mong muốn Thầy trở lại Ta Bà để hóa độ chúng sanh.

Những lúc vui, Thầy cũng không vui quá, lúc buồn Thầy cũng chỉ buồn riêng với mình. Ít ai, ngay cả những đệ tử lớn của Thầy cũng rất khó để chia xẻ với Thầy những việc Phật sự mà Thầy đã cưu mang trong quá khứ. Có lẽ Thầy đã lấy cái khổ của chúng sanh làm cái khổ của mình; nên cuối cùng rồi thân thể lại bịnh hoạn và cơn vô thường đã đến, đưa Thầy về cảnh giới an nhiên.

Chúng con biết rằng: Cõi trần thế có nhiều điều tạm bợ; nhưng "vô thường thị thường" cũng là lẽ đạo huyền vi, ngưỡng mong Thầy ở nơi cao minh nào đó chứng cho lòng đệ tử chúng con và chúng con cũng mong rằng: sắc thân Thầy có bị sự giả huyễn vùi vào lòng đất lạnh; nhưng hạnh nguyện của Thầy vẫn luôn luôn còn ở mãi với chúng sanh trong cõi đời ngũ trược nầy.

Con và các chúng đệ tử, đệ tôn nơi đây xin chắp tay nguyện cầu giác linh Thầy được cao đăng thượng phẩm và nhập vào trạng thái chân như, sớm hồi nhập Ta Bà, hóa độ chúng sanh.

Khể thủ

Đệ Tử: Thích Như Điển



Tôi muốn viết thật nhiều cho quý vị đọc. Nhiều lúc ý tưởng chất chồng phải ghi ra giấy để viết cho có thứ tự. Nhiều khi lo nắm bắt ý nầy thì ý kia chạy mất. Do vậy mà có nhiều đoạn văn không liên tục nhau, hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần. Đôi khi tôi muốn làm một cái dàn bài thật kỹ, để cho tất cả sự suy nghĩ vào một khuôn khổ nhất định nào đó; nhưng điều ấy rất khó, đôi khi vì có những sự kiện mới tiếp nhận được, nên ý văn lại dồi dào hơn và tôi lại dẫn dắt câu văn của mình đi vào một ngõ quanh khác. Nhiều khi muốn đào sâu hơn nữa một vấn đề quan trọng nào đó; nhưng chưa xong, đã phải qua vấn đề khác. Do đó khi quý vị độc giả đọc sách của tôi viết, thấy không sâu sắc là vậy. Có nhiều người viết một câu chuyện nhỏ thôi mà có thể kéo dài cả hằng trăm trang sách; nhưng ở tôi thì không được thế. Cũng có lúc muốn diễn tả câu chuyện có thêm ý vị hơn; nhưng tư tưởng lại không cho phép. Thế là vén khéo câu chuyện lại, để rồi sau khi in thành sách, lúc đọc lại, thấy sao mà ngắn quá, lẽ ra chỗ nầy hoặc chỗ kia phải cần bàn rộng hơn nữa. Thật ra một quyển sách hay, không nhất thiết phải là một quyển sách dày, nhiều trang; nhưng thông thường độc giả hay ngay chính cả tác giả cũng thế, nếu nhiều trang một chút, quả thật là sách hay thì đọc lại vui hơn. Người ta khi đọc sách xong phải tìm được một ý chính của tác giả muốn gởi đến độc giả. Đó cũng là thành công rồi. Nhiều khi đọc suốt một quyển sách viết tràng giang đại hải; nhưng độc giả chẳng thâu lượm được ý chính muốn nói cái gì, thì đây quả là chuyện bông đùa. Không ai có nhiều thì giờ để theo dõi một câu chuyện không có một mục đích nhất định.

Dẫu sao đi nữa thì tác phẩm thứ 25 nầy cũng đã xong. Mùa hạ năm nay có nhiều niềm vui và nhiều nỗi lo lắng là thế. Tuy nhiên mọi việc rồi cũng qua đi, chỉ tiếc rằng tôi không có nhiều thì giờ để lo cho mọi công việc cùng một lúc, nhiều lúc bị trách móc ở mọi nơi, ở trách nhiệm một vị Thầy, ở cương vị của một người trù trì; ở cương vị của một người lãnh đạo. Nhiều lúc tôi cũng muốn cố gắng hết mình; nhưng điều ấy không phải là chuyện đơn giản. Không ai hiểu hết được tâm lý và nhu cầu của quần chúng cả. Một chính trị gia, một nhà tôn giáo, một nhà xã hội học cũng thế thôi. Huống nữa ở đây với cương vị một Trù Trì từ trên xuống dưới phải chăm sóc mọi mặt của một ngôi chùa to lớn nhất nhì tại hải ngoại, quả không phải là chuyện đơn thuần. Nhưng còn sống là còn làm bổn phận của mình cho đến khi nào không thể kham nhẫn được nữa, lúc ấy mới thôi. Dĩ nhiên nhu cầu đòi hỏi thì nhiều, ở mỗi người, ở nhiều lãnh vực khác nhau; nhưng người lãnh đạo, dầu giỏi đến đâu đi chăng nữa, cũng không thể cung ứng mọi vấn đề cho tập thể mà cần phải có nhiều bàn tay và khối óc hỗ trợ vào.

Xin nguyện cầu cho sự sống của mọi loài luôn có ý nghĩa. Nếu có chết cũng trở về một trạng thái an nhàn, không khổ đau, không giằn vật, để tâm thức hay bổng lên cao xanh, nhìn lại thế giới khổ đau nầy, nơi con người đã sống, có được một sự cảm thông nào đó cho những sinh linh còn phải tiếp tục nổi trôi trong kiếp luân hồi nầy.



Viết xong ngày 30 tháng 8 năm 1998
nhằm ngày giỗ của phụ thân lần thứ 12,
mồng 9 tháng 7 âm lịch tại thư phòng chùa Viên Giác
Tác giả: Thích Như Điển

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2024(Xem: 1142)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 6377)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1347)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3130)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 16565)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 10011)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 12218)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 16897)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
09/09/2020(Xem: 6864)
Hỏi: Thưa Thầy, luân hồi thật sự được hiểu thế nào trong Phật Giáo, hay vấn đề này bị nhầm lẫn với thuyết tái sinh trong Bà La Môn Giáo và một số tín ngưỡng Tây Phương, vì từ Hán Việt “tái sinh” tiếng Pháp viết là "réincarnation” là sự lặp lại về đơn vị gốc, ví dụ: Người giàu nghèo sang hèn v.v… cứ thế trở lại nguyên gốc. Còn tiếng Phạn saṃsāra là luân hồi là lang thang, trôi nổi. Nếu dùng bật lửa đốt cháy cây nến, điều kiện tạo lửa từ bật lửa sẽ gồm đá đánh lửa, hộp nhựa đựng khí gas, ống thông nhau, ống dẫn ga, bánh xe tạo lực ma sát vào đá lửa, vô số phân tử hóa học trong khí gas, môi trường xung quanh v.v… Trong khi các duyên bắt lửa của ngọn nến chỉ có 2 yếu tố cơ bản gồm thân đèn làm bằng sáp và tim làm bằng vải… Vậy ngọn lửa từ bật lửa có quan hệ gì với ngọn lửa của cây nến? Như thế luân hồi không phải là sự tái sinh nguyên bản mà là tâm lang thang trôi lăn chìm nổi vì tham sân si, không biết tàm quý để rồi chúng sanh cứ mãi bị cái vòng xoay đó làm cho đau khổ?
08/06/2020(Xem: 6837)
Thần đồng 9 tuổi tốt nghiệp đại học, chuẩn bị học tiến sĩ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567