Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ –Thực hành Chánh Niệm như một lối sống và mang Chánh Niệm vào học đường tại Hoa Kỳ

20/12/202306:09(Xem: 1826)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ –Thực hành Chánh Niệm như một lối sống và mang Chánh Niệm vào học đường tại Hoa Kỳ

Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ


Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA.  Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards). 

 

***

 

*Thưa Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ, được biết, tháng Ba 2023, ông được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục đưa thực hành chánh niệm vào trường học. Ông có thể kể rõ hơn về điều này?

Dạ, nhận chân được chánh niệm tỉnh thức (mindfulness) đã giúp tôi và những ai có nhân duyên tiếp cận và thực hành chánh niệm tỉnh thức trong nhiều vấn đề mà chúng ta đang đối mặt như căng thẳng, trầm cảm, tình trạng bạo lực học đường, tự kỷ, bế tắc giao tiếp, mất phương hướng, quá nhiều trò chơi điện tử v.v… ; nên sau khi học chương trình tiến sĩ giáo dục và nghiên cứu về lãnh đạo chánh niệm và chánh niệm tỉnh giác, tôi mới ứng dụng với các học sinh của mình trong lớp cũng như huấn luyện rất nhiều giáo viên cách thức mang chánh niệm vào trường học từ năm 2014. Có khoảng 5,000 giáo viên và học sinh đã tham dự các khoá hội thảo và lớp học của tôi chia sẻ trong Hiệp Hội Giáo Chức ở bang California và nhiều nơi khác. Vì thế, Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh chúng tôi vào tháng 3 năm 2023.

 

* Lý do vì sao mà ông quyết định đưa Chánh niệm vào ứng dụng với học sinh?

 Năm đầu tiên tôi đi dạy là năm 2002, có một em học sinh tên Chris D., người Mỹ, chết vì tự vẫn. Em chết vì “come out of the closet" khi cho gia đình biết em “là đồng tính luyến ái.” Mẹ của em chấp nhận còn Ba thì không, nên em ấy đã tự treo cổ. Lúc đó, cá nhân tôi rất buồn, có phần tự trách và nghĩ đến việc mình cần phải làm gì thêm nữa để giúp học sinh của mình. Nếu không nhờ thực hành chánh niệm thì tôi đã bỏ dạy rồi. Rất tiếc, từ đó đã có thêm 5 em học sinh trong trường cũng đã tự kết liễu đời mình vì nhiều nguyên nhân khác nhau, và đa phần là dùng súng để tự sát. Trong cộng đồng người Việt của chúng ta cũng vậy, cũng có nhiều trường hợp tương tự, nhưng chúng ta không cầu cứu vì vấn đề sức khỏe tinh thần (mental health) vẫn còn là một “taboo”, một mặc cảm trong cuộc sống và cộng đồng chúng ta. Mong mỏi của tôi và cũng như bao phụ huynh khác là không muốn thêm học sinh hay tuổi trẻ nào lâm vào tình trạng bi thương ấy nữa và tìm mọi cách để phòng ngừa tự vẫn và chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau. Chánh niệm giúp chúng ta an ổn trong tâm hồn để từ đó, chúng ta giúp mình giúp người. Mọi thay đổi các cấp cũng vậy, nó bắt nguồn từ bên trong lan ra ngoài, vì bạn không thể cho những gì mình không có.

 

*Học sinh/giáo viên tiếp nhận như thế nào và có những sự tiến bộ cũng như phản hồi ra sao trước việc này, thưa ông? 

 

Tôi thiển nghĩ, mọi người tiếp cận tốt. Tôi nhận được rất nhiều phản hồi tích cực từ các giáo viên. Tôi còn nhớ khoảng 7 năm trước, có một giáo viên bảo rằng, học khoá Chánh niệm tỉnh giác đã giúp cô ấy có khả năng dạy thêm 5 năm nữa và 2 năm trước, Cô ấy đã về hưu. Có người nói: “Sau 10 năm giảng dạy, hội thảo dựa trên chánh niệm này đã thay đổi sâu sắc việc giảng dạy của tôi theo chiều hướng tốt hơn”. Hoặc: “Đây là một sự thực hành hữu ích cho mọi người. Đối với giáo viên, thiền định giúp giảm bớt căng thẳng và giúp giáo viên có cách tiếp cận hữu ích hơn với học sinh của mình”. Hoặc: “Sẽ rất hữu ích khi chúng ta nhớ dừng lại và lắng nghe người khác, có lòng từ bi đối với người khác”. Hoặc: “Tôi đã bắt đầu áp dụng chánh niệm vào buổi sáng với các học sinh của mình và dường như nó giúp ích cho bọn trẻ trong suốt cả ngày” v.v…

 

Còn các em học sinh thì học hỏi rất nhiều và đó là lý do tại sao, lớp này, Science and Art of Mindfulness (Khoa học và Nghệ thuật của Chánh niệm Tỉnh Giác) vẫn tiếp tục được dạy cho các em tại trường trung học Mira Loma. 

 

Nhiều em cho biết, lớp học đã dạy cho học sinh về suy nghĩ và cảm xúc của chính mình, đồng thời đưa ra gợi ý về cách đối phó với những suy nghĩ và cảm xúc đó. Sinh viên khác thì nói lớp học rất tốt cho học sinh vì đây là thời điểm tốt để học sinh/sinh viên năm cuối dành một giờ để suy nghĩ về bản thân thay vì căng thẳng về yêu cầu tốt nghiệp và/hoặc đại học. Có em tâm sự nhận thấy sự thay đổi trong cách đối xử với bản thân và những người khác kể từ khi bắt đầu. Chánh niệm đã giúp em giải quyết các tình huống theo cách tốt hơn và đưa ra những quyết định thông minh hơn khi buồn bã. Ngay cả khi căng thẳng, em vẫn sử dụng chánh niệm và làm từng việc một và thư giãn, nhờ đó em có một ngày bớt căng thẳng hơn. Em khác cho biết, chánh niệm giúp em giữ bình tĩnh trong mọi tình huống cuộc sống, nhìn vấn đề một cách tích cực hơn là chỉ tiêu cực v.v…

 

Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ trong giờ dạy Chánh niệm

Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ trong giờ dạy Chánh niệm

*Ngoài lớp học, trong cuộc sống ngày thường của mình, ông thực hành Chánh niệm như thế nào? Ai là người Thầy, người dẫn dắt ông đến với Thiền định, Chánh niệm? 

 

Trước hết, tôi muốn nói một chút về Chánh niệm. Chánh niệm, tiếng Pali là Sammàsati, là sự tỉnh giác, biết rõ mọi thứ đang tức thì diễn ra trong chính mình và chung quanh mình một cách trọn vẹn. Chánh niệm, một trong tám chi phần quan trọng của Bát chánh đạo, vốn được xem là con đường tám lối (lanes) đưa đến sự an vui và giải thoát, là chân lý thứ 4 (Đạo đế) trong Tứ Diệu Đế.

 

Chánh niệm tỉnh giác là trái tim của thiền tập và sự biết rõ những gì phát sanh, tồn tại và hủy diệt ngay trong mỗi khoảnh khắc của hiện tại. Hay nói một cách khác, chánh niệm là sự nhận thức, biết rõ (tuệ tri) được những gì đang có mặt, đang xảy ra. Chánh niệm đưa chúng ta quay trở lại với giây phút hiện tại. Giây phút hiện tại là điều duy nhất chúng ta có thể nhận biết được sự có mặt rất mong manh của mình – bây giờ và ở đây. Nó như việc đánh răng hằng ngày, nên tôi cố gắng thực tập và hành trì như là một lối sống, trong mọi việc hàng ngày. Chẳng hạn, rửa chén cũng là phương thức thực hành chánh niệm. Lúc rửa chén thì để tâm trọn vẹn vào việc rửa chén chứ không phải làm cho xong. Hay thậm chí chúng ta có thể thực hành chánh niệm khi đi tắm, khi đi đường, lái xe, chờ trả tiền, khi đi shopping…

 

Tôi học hỏi từ rất nhiều Thầy Cô từ địa phương đến quốc tế, nhưng người có ảnh hưởng lớn nhất—dẫn dắt đến con đường chánh niệm và lan tỏa chánh niệm cho người khác là Thiền Sư Thích Nhất Hạnh. Người đứng thứ 11 trong 14 vị có tầm ảnh hưởng nhất của Phật giáo đến với nhân loại. (Theo cuốn sách The Buddhist World–Thế Giới Phật Giáo được nhà xuất bản Routledge ấn hành năm 2016, do giáo sư Phật học John Powers của trường Đại học Quốc Gia Úc Đại Lợi–Australian National University biên tập.)

 

*Được biết, ông là một Phật tử và có những hoạt động trong cộng đồng Phật Giáo của người Việt ở hải ngoại? 

 

Dạ tôi là Huynh trưởng của tổ chức Gia Đình Phật Tử, một tổ chức bất vụ lợi, với mục đích “Đào luyện thanh - thiếu - đồng niên thành Phật tử chân chính. Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo và dân tộc Việt". Chúng tôi làm việc và học hỏi trong tinh thần Hoà-Tin-Vui và Bi-Trí-Dũng. Ngoài ra, chúng tôi cũng là cư sĩ nên bất cứ công tác Phật sự nào cần sự giúp đỡ thì luôn có gắng đảm nhận khi thuận duyên đưa đẩy. 

 

*Bên cạnh đó, ông cũng hay dịch thơ Thầy Thích Tuệ Sỹ và đóng góp vào việc hình thành cuốn Kỷ yếu tri ân Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ?

 

Đúng thể, tôi rất thích thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Thơ của Thầy sâu sắc, trừu tượng, có nhiều ẩn dụ, và thông điệp ngầm. Trong đó, có nhiều bài tôi muốn dịch ra tiếng Anh để tuổi trẻ hiểu thêm về một con người tài ba xuất chúng, một bậc Long tượng và có lần chúng tôi đã biên tập và xuất bản cuốn sách mang tên, “Tuệ Sỹ - Vị Thầy của Bốn Chúng”. Cuốn sách đó đã tái xuất bản được 4 lần. 

 

Về tập Kỷ yếu Tri ân Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, lúc đó được tin Thầy ngã bệnh nặng và có thể ra đi bất cứ lúc nào, vì thế những người thân cận của Thầy tại hải ngoại mới nghĩ đến việc làm một Kỷ yếu Tri ân cấp bách để cho Thầy đọc trước khi người “nhập Niết bàn". Đó là một cố gắng lớn của nhiều người khi kêu gọi viết trong vòng 10 ngày và hoàn tất trong vòng 1 tháng, nhưng đã hoàn tất với sự đóng góp của nhiều cây bút, biên tập viên trong và ngoài nước.

 

Quý vị nào quan tâm có thể vào trang mạng www.hoangphap.org để đọc toàn bộ file PDF của Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ đã được uploaded.

 

*Xin ông kể một chút về mối quan hệ của ông với Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ? 

 

Thuở đầu tôi chỉ là người hâm mộ thơ văn của Thầy và sau đó trở thành học trò của Thầy khi nghe Thầy giảng dạy online và qua các trại huấn luyện Gia Đình Phật Tử nhất là khi học bậc Lực cho trại Vạn Hạnh.  Những năm cuối đời của Thầy thì tôi có được thiện duyện cộng sự với Thầy trong những Phật sự được giao phó. Nhưng chính yếu tôi vẫn là một người học trò muộn màng của Thầy. 

 

Ở Thầy, tôi học hỏi rất nhiều điều từ tư cách, lãnh đạo bằng thân giáo đến văn thơ, thi phú, nhưng phần lớn là về Phật học cho đến những ngày cuối đời của Thầy trên giường bệnh. Cũng như những vị Tổ đi trước, Thầy luôn dạy “lấy trí tuệ làm sự nghiệp” và căn dặn lấy văn hoá, xã hội, và giáo dục làm nền tảng sinh hoạt. Thầy cũng luôn dặn lấy Bồ Tát Đạo, Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Hành mà hành hoạt. Tôi xin trích một đoạn ngắn tôi viết trong bài “Thầy Tuệ Sỹ – bậc Thạc đức và Nhà giáo dục lớn” nằm trong tập Kỷ Yếu Tri Ân: 

 

“Trong cuốn sách đầy ảnh hưởng ‘Du Già Bồ Tát Giới’ (2010), Thầy đã nêu rõ tầm nhìn của mình về giáo dục, lấy nền tảng Bồ Tát Hạnh, Bồ Tát Đạo và Bồ Tát Hành làm kim chỉ nam cho một thế giới ngày càng tốt đẹp hơn, an bình và thịnh vượng. Thầy tin rằng, văn hoá và giáo dục không những chuẩn bị cho cá nhân trở thành công dân tích cực, thăng tiến mà còn nuôi dưỡng các giá trị nhân văn, dân chủ, tương đồng, khoan dung và trách nhiệm xã hội. Ý tưởng của Thầy tiếp tục định hình các cuộc thảo luận về vai trò của giáo dục trong việc thúc đẩy tâm từ, hoà bình, các khía cạnh xã hội dân chủ nhân văn.

 

Nói tóm lại, những đóng góp của Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ cho nền giáo dục Phật giáo còn kéo dài hơn cả cuộc đời Thầy qua công trình đồ sộ phiên dịch Đại Tạng Kinh bằng tiếng Việt. Đó là một di sản tâm linh, một di sản giáo dục rất lớn từ trước đến nay của Phật Giáo Việt Nam. Sự hành trì nghiêm mật, sự trải nghiệm và trí tuệ vô biên của Thầy tiếp tục truyền cảm hứng cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia, các nhà giáo dục Phật Giáo, cũng như các giới văn nghệ sĩ đến các nhà hoạt động xã hội. Tam giáo (thân, khẩu, ý giáo) của Thầy có thể là định hình cho các hoạt động giáo dục hoặc những người tự cho mình là nhà giáo dục / giáo viên trên toàn thế giới có tầm nhìn chung để nương vào và hành hoạt. Ý tưởng và hoài bão của Thầy đặc biệt phù hợp trong bối cảnh giáo dục ngày nay, trong đó nhấn mạnh đến nhân bản, dân tộc, và sự dấn thân của giới trẻ để tư duy, phê phán và phát triển đạo đức và tâm linh theo đà phát triển kỹ thuật và khoa học của thế kỷ 21 này.”

 

*Thưa Tiến sĩ, ông có muốn nói gì thêm với quý bạn đọc về việc thực hành Chánh niệm, Thiền định trong đời sống hàng ngày? Đặc biệt là việc thực hành Chánh niệm sẽ giúp ích như thế nào đến vấn đề sức khỏe tâm thần của con người trong một thế giới đầy bất ổn, chia rẽ, thù hận như hiện nay?

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh Thiền Chánh niệm là một trong những phương pháp chăm sóc sức khỏe thay thế cho việc giảm bớt căng thẳng, lo lắng, trầm cảm và đồng thời có thể mang lại lợi ích tốt cho sức khỏe thể chất, tinh thần của con người. Nó cũng là phương cách học một lối sống có ý nghĩa và hài hòa với những trải nghiệm tích cực từ trong ra ngoài. 

Nói ngắn lại, chánh niệm là một nếp sống. Sống chánh niệm tỉnh thức giúp chúng ta nhận chân được cuộc đời tương tác tương sinh tương duyên như nó là. Vẻ đẹp của gia đình, cộng đồng và xã hội trong cuộc đời tuỳ thuộc vào suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta. Hãy tập lắng nghe để hiểu, nhìn sâu để thương, và hành hoạt trong nền tảng lợi mình và lợi người ngay bây giờ và cho cả tương lai. 

Thế giới như chị nói, vốn đã “bất ổn, chia rẽ và đầy thù hận” thì chúng ta hãy sống làm sao để vơi bớt những hận thù, chia rẽ và bất an đó. Hãy cố gắng sống, “sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp đời bớt khổ". Chánh niệm giúp ta thấy mọi sự như là mà không đánh giá, phản ứng tiêu cực, chỉ nhận chân mọi sự việc, cảm thọ để rồi phản hồi một cách tích cực trên nền tảng lợi mình và lợi người, ngay bây giờ và cả tương lai. Chánh niệm cũng giúp chúng ta khai triển lòng từ, đem tâm từ bi hỷ xả đến với người khác. Có chánh niệm, chúng ta suy nghĩ và hành hoạt một cách chín chắn và tốt hơn, sống trọn vẹn với người mình thương, với tất cả mọi người và với cuộc đời quý giá này. 

* Chân thành cảm ơn ông.

Nhật Hiên (thực hiện)

Source: https://www.diendantheky.net






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2022(Xem: 18780)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14544)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12657)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6789)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8901)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7923)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
07/12/2021(Xem: 4437)
Triết học Phật giáo và Cơ học Lượng tử luôn có sự hỗ tương cho nhau. * Sự kỳ lạ của Cơ học Lượng tử đến mức thách thức các nhà khoa học và triết học tìm hiểu một số nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế. * Một nỗ lực để tìm cách diễn giải Copenhagen, và một số người tin rằng cách lý giải này dựa vào Thế giới quan Phật giáo. * Mặc dù tôi là một Phật tử nhưng tôi phản bác quan điểm vật lý học chứng minh Thế giới quan Phật giáo.
17/11/2021(Xem: 20486)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16878)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10722)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567