Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

43. Địa Ngục ở đâu ? (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm & Huệ Hương ghi chép các điểm chính)

04/08/202003:45(Xem: 14337)
43. Địa Ngục ở đâu ? (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm & Huệ Hương ghi chép các điểm chính)






Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

 Hôm nay SP giảng bài kệ thứ 43: Địa ngục ở đâu?

Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề.
Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật

Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ đề
Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát.



Bài kệ này lấy từ Kinh Địa Tạng Công Đức Bổn Nguyện.


Bồ tát Địa Tạng là một trong sáu vị Bồ tát quan trọng trong hệ tư tưởng Phật giáo Đại thừa gồm có: Bồ tát Di Lặc, BT Văn Thù, BT Đại Hạnh Phổ Hiền, BT Quán Thế Âm và BT Đại Thế Chí.

Bồ tát Địa Tạng và BT Quán Thế Âm gần gũi với chúng sanh vì cả hai cùng phát đại nguyện cứu độ chúng sanh.
Ngài Địa Tạng Bồ Tát được tất cả chùa ở Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên tôn thờ.

Tương truyền, ở miền Bắc Triều Tiên thuộc nước Tân La có vị Thái tử tên Kim Kiều Giác, Ngài qua Cửu Hoa Sơn tu học. Người đời cho rằng Ngài Kim Kiều Giác là hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng. Trên đỉnh núi Cửu Hoa Sơn còn lưu lại dấu chân của Ngài trên một tảng đá, nơi Ngài đứng để thọ trì kinh Địa Tạng, Ngài cao 5m, dấu chân này có độ lún sâu khoảng 5cm.

Phái đoàn TV Quảng Đức đi hành hương đến nơi đây có cúng dường tấm kiếng mi- ca để che chắn bảo vệ dấu chân.
Do vậy tín ngưỡng của Triều Tiên đối với Ngài Địa Tạng rất cao.
Ở Nhật có  Chùa Vô Thủ Địa Tạng được cho là rất linh thiêng.

Tương truyền, sau khi có trận động đất, tôn tượng bị trôi lạc chôn vùi trong đất. Dân làng khi đào đất thấy tôn tượng không còn đầu, trên tượng có khắc tên Địa Tạng Vương Bồ Tát nên thỉnh về tôn thờ.

Tượng có công năng phù hộ cho các thai nhi, những người bị hiếm muộn và ngay cả những người có bệnh, thành tâm đến đảnh lễ, trì thần chú của Bồ Tát Địa Tạng " Án Ha Ha Vĩ Sa Ma Lý Ta Bà Ha", cầu khẩn đều được toại nguyện. Và sau đó những người này đến tạ lễ, viết kể lại trên một mảnh giấy bỏ vào cái chuông, và tất cả được kết tập thành bộ truyện với hơn 600 mẩu chuyện linh ứng.


HT Như Điển đã dịch ra chữ Việt gồm 3 quyển với tựa đề là “Những câu chuyện linh ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát."

Bạch Sư Phụ, con có cơ duyên được đến viếng Ngài hai lần, khi theo đoàn do HT Như Điển và đoàn do Sư Phụ hướng dẫn.

Lịch sử Kinh Địa Tạng thì vào mùa An Cư thứ 7 sau khi Phật thành đạo, Ngài đã bay lên Cung trời Đao Lợi giảng Kinh Địa Tạng cho Thân mẫu nghe.

Bên hệ Đại thừa chúng ta có Kinh Địa Tạng, bên Nguyên Thủy có bộ Vi Diệu Pháp là 2 bộ kinh mà Đức Phật giảng nói trên Cung Trời Đao Lợi. Sau này các nhà nghiên cứu cho rằng Kinh Địa Tạng không do Phật thuyết, mà do những vị Tổ Trung Quốc biên soạn từ các bản kinh gốc Nikaya: Trung Bộ Kinh (đọc Kinh Thiên Xứ), Trường Bộ Kinh (đọc Khởi Thế Nhân Bổn), Trường A Hàm (Đọc Kinh Thế Ký, phẩm 4 nói về địa ngục), nếu ai không tin có địa ngục thì nên đọc các kinh trên có ghi lại những lời Phật nói về địa ngục.




Địa ngục: Địa là đất; ngục là nơi giam cầm. Nơi đó vô lạc, khổ khí, khổ cụ làm cho người ta khổ sở, đau đớn.

Kinh Địa Tạng có 3 quyển (thượng, trung, hạ) do HT Thích Trí Tịnh dịch ra tiếng Việt.

Kinh Địa Tạng gần gũi và có công năng giúp cho chúng ta tránh ác làm lành.

Người thọ trì Kinh Địa Tạng miên mật sẽ được 7 lợi ích: Những mong cầu sẽ được thành tựu, trí tuệ phát sanh, tai nạn không đến gần, thoát khỏi hiểm nguy, tội chướng tiêu trừ, bịnh tật sẽ hết, được Chư Thiên quỷ Thần ủng hộ.

Trong kinh Địa Tạng, quyển Trung, phẩm 5 nói về danh hiệu địa ngục và những tội báo ở địa ngục.

Thầy Linh Như ở Mỹ có làm bài thơ tặng phật tử lúc Sư Phụ có qua Mỹ mời Thầy ngồi giảng chung với SP:

Một lòng giữ niệm Di Đà
Đài sen ao báu là nhà tương lai ...
Huyễn thân trả lại trần ai
Cõi thường tìm lại hình hài năm xưa

Tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng :

-Là một trưởng giả gặp Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, có thân tướng rất trang nghiêm đẹp đẽ, trưởng giả hỏi tu hạnh gì mà được như vậy? Phật nói nhờ công đức hóa độ chúng sanh. Ngài Trưởng giả mới phát nguyện hóa độ cho tất cả chúng sanh thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề rồi mới thành Phật. Và Ngài đã được Phật thọ ký sẽ thành Phật trong tương lai.

Sự: Có Đức Phật tên Sư tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai
Lý: Hành giả phải dựa vào sự mạnh mẽ của pháp tu Lục độ vạn hạnh để đạt được quả vị giải thoát và giác ngộ.

- Một vị nữ Bà la môn, mẹ chết, đến cầu Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai cho biết hiện tại mẹ đang ở đâu? Đức Phật hướng dẫn về nhà ngồi định tâm niệm Phật, sau đó tâm thức được quỷ Vô độc dẫn đi qua 3 biển để vào ngục thăm mẹ. Ba biển này là biểu hiện cho thân khẩu ý nghiệp. Khi về người nữ này lo tạo các công đức bố thí, phóng sanh, cúng dường để hồi hướng cho mẹ. Sau khi mẹ được thác sanh về cõi giới an lành,vị Bà la môn này cũng phát đại nguyện cứu độ cho tất cả chúng sanh hết khổ đau rồi thì mới thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề.

- Một người nữ tên Quang Mục, mẹ thích ăn cá trạnh, do sát sanh nên khi chết bị đọa địa ngục. Quang Mục đến chùa cầu xin Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, nhờ Phật cứu độ giùm, cũng được Phật hướng dẫn tạo các công đức lành để hồi hướng cho mẹ. Và khi mẹ được thác sanh về cõi an lành, nàng cũng phát đại nguyện cứu độ cho tất cả chúng sanh khi nào hết khổ đau rồi mới chứng đạo quả Vô thượng Bô đề.

Trên chỉ là sự.

Về lý thì quang là sáng; mục là mắt. Mắt sáng gặp được Liên Hoa Mục Như Lai có hạt giống Phật thanh tịnh và con mắt sáng đã dẫn dắt trên con đường hành đạo không bị rơi vào ngục tối A tỳ.


Ngoài ra trong bài tựa của Kinh Địa Tạng cũng có hình ảnh nói về sự và lý của Bồ tát Địa Tạng: U Minh Giáo Chủ, Cưú Khổ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

Địa là dày chắc; tạng là chứa đủ.
Bồ tát Địa Tạng là U Minh Giáo chủ: Đó là sự còn về lý chính là cõi lòng của chúng ta, mình là Địa Tạng, là giáo chủ cõi lòng của mình, địa ngục cũng là ở trong tâm ta.


Bồ Tát Địa Tạng tay cầm tích trượng có 12 khoen, tượng trưng 12 nhân duyên là duyên khởi đưa chúng sanh đi vào cảnh giới luân hồi. Nếu có minh châu soi sáng để chuyển từ vô minh thành minh sẽ giải quyết được sanh tử luân hồi.
Địa Tạng chính là ta; độ tận là độ tận chúng sanh (tham sân si .....) trong chính chúng ta.

Địa ngục vô gián. Khi trong lòng có những nỗi phiền lụy, khổ đau không ngừng nghỉ, không gián đoạn, thì đó là lúc chúng ta đang ở trong địa ngục Vô gián vậy.

 
Từ câu: Thê thê thảm thảm chỉ tại nơi mình, Sư Phụ kể một chuyện nhân quả rất khủng khiếp ở làng chài Lăng Cô dưới đèo Hải Vân.

Chuyện kể về hai gia đình ở cạnh nhà nhau. Một bên là nhà Mệ Hoàng rất giàu, chủ hãng sản xuất nước mắm. Một bên là nhà nghèo, người chồng mất vì đi lính, người vợ là O Thơ, có nuôi con gà lấy trứng bán để sinh sống. Một hôm con gà gáy to, Bà Mệ Hoàng khó chịu, sai gia nhân sang bắt con gà. O Thơ chạy sang nhà Mệ Hoàng van nài khóc lóc xin lại con gà nhưng Mệ Hoàng đã không trả lại gà mà còn dã man nắm 2 chân con gà và xé  toạt tan xác con gà và nguyền rủa tàn độc O Thơ. O Thơ quá đau lòng ôm xác con gà khóc tức tửi không nên lời đến thăm mộ chồng, và sau đó dọn đi nơi khác ở.

Một năm sau, gia đình Mệ Hoàng bị nhiều tai ương: Con trai chết khi đi chài cá; cháu nội chết khi nhà cháy; Mệ Hoàng ngủ thấy hồn ma của anh Hùng (chồng O Thơ) về bóp cổ ngẹt thở, và đòi xé xác bà như con gà bị bà xé xác. Bà nhờ O Thơ khấn xin vong linh anh Hùng tha cho bà. Anh Hùng nhập vào ông anh của Mệ Hoàng khuyên bà phải tu Nhơn tích Đức và khuyên O Thơ vợ của anh lập gia đình.

Câu chuyện nhân quả hiện tiền là một bài học rất thực tại, giúp thức tỉnh lòng người phải coi chừng hành động, lời nói, ý nghĩ để không bị quả báo là điều không sao tránh khỏi nếu đã tạo nhân xấu ác.


Con kính tri ơn Sư Phụ ban cho mỗi ngày một bài pháp tu đầy lợi lạc.

Cung kính,   
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)



Dia Nguc o dau




Nhìn xuống.




Kính dâng Thầy bài thơ khi học kinh Địa Tạng

qua bài pháp thoại "Địa ngục nơi đâu?" Kính chúc sức khỏe Thầy, HH





Từ lúc Tuổi Đông, cẩn thận luôn nhìn xuống,

Vì Bác sĩ nhắc nhở: ngã ...té khổ đời

Xương thoái hoá ...khó tránh lắm người ơi

Nằm mấy tháng ...ai đâu mà chăm sóc!



Học ...quả báo đến, rủi may như gió lốc

Vẫn ngày ngày tu Phước, nhớ Phật trong lòng

Nhưng muốn niệm Phật nhất tâm ..Dễ mà không !

Ý tưởng buông lung, quá khứ chập chùng tán loạn.



Quyết "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn"

Điều gì tai nghe, mắt thấy không giữ trong lòng

Ngày ngày vui bổn phận, nhiệm vụ cho xong

Nghiệp không chờ để trả....tạo thiện lành chuyển hoá!



Nhìn xuống Đất đã dưỡng nuôi....sản sinh cây lá

Đọc kinh Địa Tạng ...có địa ngục bởi tâm mình

Nên không dễ duôi...tưới tẩm chủng tử tốt phát sinh

Niệm Phật, thiền hành thường xuyên ...tâm ổn định!




" Nhành lúa cúi đầu ...là lúc lúa chín "

Tập nhìn xuống đất...tu tập cách khiêm cung

Dù cho giông tố ...có lúc bão bùng

Sẽ qua đi u ám ...mây trời xanh trắng!




Đời người huyễn ảo...xem ra rất ngắn!



Huệ Hương




1--Tu Vien Quang Duc Youtube channel

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2019(Xem: 13588)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
03/09/2019(Xem: 8684)
Hiện tình quốc tế và đất nước đang diễn biến dồn dập hơn bao giờ hết. Khi chính quyền các quốc gia và định chế quốc tế tỏ ra không đủ khả năng để ứng phó trước nguy cơ chiến tranh có thể bộc phát, thì một chủ đề đạo đức tôn giáo cần được thảo luận: Phật giáo có biện minh nào cho chính nghĩa trong cuộc chiến tương lai không?
29/08/2019(Xem: 10777)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10971)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11437)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16460)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
27/05/2019(Xem: 4979)
Tác giả William Edelglass là tân giám đốc về nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Học Barre và là giáo sư triết học và môi trường tại Trường Cao Đẳng Marlboro College tại tiểu bang Vermont. Công việc của ông đã đưa ông tới Dharamsala, Ấn Độ, nơi ông dạy cả triết học Tây Phương cho chư tăng Tây Tạng tại Học Viện Institute of Buddhist Dialectics và triết lý Phật Giáo cho các sinh viên đại học Mỹ về chương trình nghiên cứu Tây Tạng. Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
02/05/2019(Xem: 6537)
Vì thương xót hết thảy hữu tình phải chịu phiền não, đau thương do tham ái mà bị trôi dài trong bể khổ sinh tử luân hồi, Đức Phật hiện ra ở đời để lại cho thế gian vô số pháp môn tu tập, tùy theo căn cơ, sở trường và hoàn cảnh của mỗi chúng sanh mà chọn lựa pháp hành thích ứng để tu tập nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Chư pháp của Thế Tôn được ví như những thang thuốc tùy bệnh mà bốc thuốc. Trong số đó, Tuệ quán vô thường, khổ và vô ngã của tất cả pháp, qua đó hành giả quán tánh ly tham, quán tánh đoạn diệt, quán tánh xả ly của tất cả pháp, là pháp “tối thượng” và vi diệu ‘nhất’ vì nếu hành giả thường xuyên hành trì sẽ ‘chứng đạt’ Tuệ Giải Thoát, vị ấy sẽ đoạn tận mọi kiết sử, không còn khổ đau, phạm hạnh đã thành, chánh trì giải thoát, là bậc A-La-Hán.
24/04/2019(Xem: 4009)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thật ,nhiếp phục uế trược cám dỗ cũng thật, tài sản, vợ con, tình yêu, danh vọng, địa vị …đều thật hết. Chính cái Thật đó mà khổ đau phát sanh cũng là Thật.
01/03/2019(Xem: 5176)
Triết Học Phật Giáo Ấn Độ, Hayes Richard, Thích Nguyên Tạng (dịch), Phật giáo (PG) là một thành tố quan trọng, hỗn hợp các triết lý khác của tiểu lục địa Ấn Độ trong hơn một ngàn năm qua. Từ phần đầu khá lặng lẽ, vài thế kỷ trước Tây lịch, nền học thuật PG gia tăng sức mạnh cho tới khi đạt đến đỉnh cao ảnh hưởng và tính chất độc đáo trong nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Từ thế kỷ thứ mười một trở đi, PG dần dần suy thoái và cuối cùng biến mất ở miền Bắc Ấn Độ. Mỗi nhà tư tưởng chú trọng vào những đề tài khác nhau, nhưng khuynh hướng chung của đa số họ là trình bày một hệ thống triết lý nhất quán, bao gồm đạo đức học, tri thức học và siêu hình học. Phần lớn những đề tài mà các triết gia PG Ấn này viết, là phát xuất trực tiếp từ những giáo lý được xem là của Sĩ-đạt-ta Cồ Đàm (Siddhartha Gautama), thường được tôn xưng bằng danh hiệu là Đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567