Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25: Đức Phật Di Lặc (bài trình pháp của Phật tử Quảng Tịnh Tâm sau khi nghe bài giảng của Sư Phụ Nguyên Tạng)

16/07/202012:22(Xem: 16040)
25: Đức Phật Di Lặc (bài trình pháp của Phật tử Quảng Tịnh Tâm sau khi nghe bài giảng của Sư Phụ Nguyên Tạng)

25_TT Thich Nguyen Tang_Duc Phat  Di Lac-2--

Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay SP giảng bài kệ thứ 25 : (do Hòa Thượng Thích Trí Thủ biên soạn trong nghi Đảnh Lễ Tam Bảo, 108 lạy):

Bài hôm nay nói về:   Đức Phật Di Lặc, qua bài kệ:

 

Tăng kỳ quả mãn

Bách kiếp nhàn viên

Nhất sanh bổ xứ

Hiện trú Đâu Xuất.

 

Nhất tâm đảnh lễ   Nam mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật.

 

Bồ Tát Từ Thị Di Lặc đã tu hành trải qua ba A tăng kỳ kiếp để thành tựu quả Phật.

 

Bồ Tát Di Lặc (Maitreya, Metteya), người Tây Phương gọi ngài là Happy Buddha, Laughing Buddha, Smiling Buddha, ngài hiện ở cung trời Đâu Xuất (Tushita).

 

Trong Kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Di Lặc được Đức Phật Thích Ca thọ ký sẽ thành Phật trong tương lai.

 

Nói tương lai là khi nào ? khoảng 57 tỷ 60 triệu năm nữa ngài sẽ giáng sanh xuống cõi Ta Ba, tu hành, thành Phật và giáo hóa chúng sanh (Sư phụ trưng dẫn tài liệu này từ trang 1232, tập 1 của Phật Quang Đại Từ Điển)

 

Theo Kinh Di Lặc ,   Bồ tát thuộc dòng Bà La Môn, mẹ Ngài không ăn thịt khi mang thai Ngài và Ngài không ăn thịt từ nhỏ, thể hiện tâm từ bi, nên ngài có tên là Từ Thi.

Trong dân gian, Bồ tát Di Lặc có dáng tròn bụng to, miệng luôn cười có hàm răng đẹp.

Ở Trung Quốc ,Ngài có hình dáng là Bố Đại Hoà Thượng lúc nào cũng mang cái bị to, chứa bánh kẹo cho trẻ nít, nên có thơ ca ngợi ngài:

Bụng to má lúm đồng tiền
Chung quanh sáu trẻ ngữa nghiêng reo hò.

 

Ở Việt Nam, Ngài có hình dáng là ông địa được thờ một góc trong nhà, cai quản đất đai, coi việc xây nhà, người Việt theo tín ngưỡng dân gian cúng Ông Địa là thể hiện tinh thần tri ơn người khai khẩn đất đai, môi trường sống mà gia đình mình đang lưu trú trên mãnh đất đó. Sư Phụ có kể nhà Mẹ Tâm Thái của Sp cũng cúng ông Địa và Sp cho biết là yêu quý phong tục này của Tổ Tiên VN chúng ta. Uống nước nhớ nguồn.

 

Ở Ấn độ , trong vườn chùa của Thầy Huyền Diệu có một tôn tượng Ngài ngồi có sáu đứa trẻ bao quanh , biểu trưng cho lục căn ,sắc thanh hương  vị xúc pháp.

Người Việt Nam từ năm 1972, tương truyền Phật Di Lặc sẽ ra đời vào hội Long Hoa, nên thiên hạ rũ nhau trồng cây Thanh long để đón Ngài giáng phàm ở Nha Trang, Phan Thiết...

Bên  Ấn Độ có cây Long Hoa (Nagarukka) còn gọi là cây Mù U  (Calophyllum),  và tin rằng Phật Di Lặc sẽ ra đời và  giác ngộ dưới cây mù u này, cây nầy có hoa màu trắng nhụy vàng, giống như hoa vô ưu . Cây nầy cũng có mọc ở Nam Ấn, Mã Lai và Úc Châu. Trái mù u làm thuốc  để chửa răng hư,  làm dầu đốt đèn.

 

Ở phương Tây họ cũng  theo truyền thống Bố đại Hoà thượng , là có hình ảnh ông già Noel mang quà cho trẻ em vào dịp cuối năm.

 

Hình ảnh Bồ tát Di Lặc bụng to chứa vô ngại tất cả những điều hay dở của thế gian  ,

Và luôn cười hoan hỉ tất cả  chuyện tốt xấu của thế gian.

Sư phụ có đọc 2  câu đối nói về ngài Di Lặc :

“Đại đỗ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự

Hàm nhan vi tiếu, tiếu thế gian nan tiếu chi nhân”

 

Có nghĩa là:

 

“Cái bụng lớn có thể dung chứa những việc mà người đời không dung chứa được

Miệng nở nụ cười mỉm với những điều mà người đời khó có thể mỉm cười được”.


Cái bụng lớn của người thế gian là dung chứa tam độc tham sân si, còn bụng to của Ngài Di Lặc dung chứa tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, chúng ta nên học theo Ngài.


Sư Phụ cũng có nhắc câu ngạn ngữ của người Do Thái cho rằng:
Cười là loại mỹ phẩm rẻ nhất, Vận động là y dược rẻ nhất, Chào hỏi là loại chi phí giao tiếp rẻ nhất ; Một ngôi nhà nhỏ đầy ắp tiếng cười có giá trị hơn một cung điện đầy nước mắt.

 Ông Mark Zuckerberg, CEO của Facebook thì cho rằng:

Những người thành công luôn luôn có 2 thứ trên môi của họ:
1. Sự im lặng ; 2. Nụ cười

 

 Im lặng là biết lắng nghe để hiểu .

Cười là thông cảm , hoà hợp.

 

Bạch Sư Phụ,   Hôm nay SP ban cho bài giảng tuyệt vời về Ngài Di Lặc, một vị Phật đương lai hạ sanh ,

và đặc biệt vị Phật có nụ cười hỷ xả .

Cười giúp buồn thành vui,

lo âu được thư giản ,

thiện cảm, hạnh phúc lan tỏa chung quanh

và nhất là đem lại niềm vui cho năm mới.


Cuối thời Pháp, Sư phụ có đọc lại bài thơ về mùa xuân Di Lặc rất hay để cống hiến đại chúng:

Xuân Di Lặc tràn đầy hoan hỷ
Hội Long Hoa khó tả niềm vui
Từ tôn ngài hiện nụ cười
Vừa hiền vừa đẹp vừa tươi vừa hoà
Tết nguyên đán trăm hoa đua nở
Hội minh niên hớn hở không cùng
Trong khi vạn vật tưng bừng
Thì ngài xuất hiện chân dung khác thường
Tay xách bị in tuồng hành khất
Áo trật vai giống hệt như tiên
Lại thêm má lúm đồng tiền
Chung quanh sáu trẻ ngửa nghiêng reo hò
Người trông thấy, buồn lo biến mất
Quả thật là một bậc y vương
Con nay xin nguyện cúng dường
Noi theo hạnh xả coi thường lợi danh.

Con cảm ơn Sư Phụ đã chịu khó ban pháp thoại mỗi ngày cho chúng con trong mùa dịch cúm.

 

Nam Mô Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật .

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2019(Xem: 13583)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
03/09/2019(Xem: 8681)
Hiện tình quốc tế và đất nước đang diễn biến dồn dập hơn bao giờ hết. Khi chính quyền các quốc gia và định chế quốc tế tỏ ra không đủ khả năng để ứng phó trước nguy cơ chiến tranh có thể bộc phát, thì một chủ đề đạo đức tôn giáo cần được thảo luận: Phật giáo có biện minh nào cho chính nghĩa trong cuộc chiến tương lai không?
29/08/2019(Xem: 10774)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10969)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11435)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16460)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
27/05/2019(Xem: 4978)
Tác giả William Edelglass là tân giám đốc về nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Học Barre và là giáo sư triết học và môi trường tại Trường Cao Đẳng Marlboro College tại tiểu bang Vermont. Công việc của ông đã đưa ông tới Dharamsala, Ấn Độ, nơi ông dạy cả triết học Tây Phương cho chư tăng Tây Tạng tại Học Viện Institute of Buddhist Dialectics và triết lý Phật Giáo cho các sinh viên đại học Mỹ về chương trình nghiên cứu Tây Tạng. Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
02/05/2019(Xem: 6536)
Vì thương xót hết thảy hữu tình phải chịu phiền não, đau thương do tham ái mà bị trôi dài trong bể khổ sinh tử luân hồi, Đức Phật hiện ra ở đời để lại cho thế gian vô số pháp môn tu tập, tùy theo căn cơ, sở trường và hoàn cảnh của mỗi chúng sanh mà chọn lựa pháp hành thích ứng để tu tập nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Chư pháp của Thế Tôn được ví như những thang thuốc tùy bệnh mà bốc thuốc. Trong số đó, Tuệ quán vô thường, khổ và vô ngã của tất cả pháp, qua đó hành giả quán tánh ly tham, quán tánh đoạn diệt, quán tánh xả ly của tất cả pháp, là pháp “tối thượng” và vi diệu ‘nhất’ vì nếu hành giả thường xuyên hành trì sẽ ‘chứng đạt’ Tuệ Giải Thoát, vị ấy sẽ đoạn tận mọi kiết sử, không còn khổ đau, phạm hạnh đã thành, chánh trì giải thoát, là bậc A-La-Hán.
24/04/2019(Xem: 4009)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thật ,nhiếp phục uế trược cám dỗ cũng thật, tài sản, vợ con, tình yêu, danh vọng, địa vị …đều thật hết. Chính cái Thật đó mà khổ đau phát sanh cũng là Thật.
01/03/2019(Xem: 5174)
Triết Học Phật Giáo Ấn Độ, Hayes Richard, Thích Nguyên Tạng (dịch), Phật giáo (PG) là một thành tố quan trọng, hỗn hợp các triết lý khác của tiểu lục địa Ấn Độ trong hơn một ngàn năm qua. Từ phần đầu khá lặng lẽ, vài thế kỷ trước Tây lịch, nền học thuật PG gia tăng sức mạnh cho tới khi đạt đến đỉnh cao ảnh hưởng và tính chất độc đáo trong nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Từ thế kỷ thứ mười một trở đi, PG dần dần suy thoái và cuối cùng biến mất ở miền Bắc Ấn Độ. Mỗi nhà tư tưởng chú trọng vào những đề tài khác nhau, nhưng khuynh hướng chung của đa số họ là trình bày một hệ thống triết lý nhất quán, bao gồm đạo đức học, tri thức học và siêu hình học. Phần lớn những đề tài mà các triết gia PG Ấn này viết, là phát xuất trực tiếp từ những giáo lý được xem là của Sĩ-đạt-ta Cồ Đàm (Siddhartha Gautama), thường được tôn xưng bằng danh hiệu là Đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567