Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Pháp Thích Nghi Để Tu

04/01/202020:59(Xem: 8515)
Tìm Pháp Thích Nghi Để Tu


Phat thuyet phap

Tìm Pháp Thích Nghi Để Tu

Nguyên Giác

 

Bài viết nhan đề “Góp Ý Với Sư Cô Thích Nữ Thanh Tâm” của Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình trên mạng Thư Viện Hoa Sen hiển nhiên là nhiều thiện ý, đã đưa ra các nhận định mang tính xây dựng. Từ đó, tất nhiên có phản ứng, và những ý kiến trái nghịch được đưa ra. Trong mọi trường hợp, tất cả những dị kiến nên xem như chuyện bình thường.

Một ngày sau khi bài của tác giả Thiện Quả Đào Văn Bình lên mạng, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhà văn Chân Huyền (một vị giáo thọ Làng Mai) hỏi ý kiến về bài viết trên, và rồi nói một số điểm nhìn từ những gì chị hiểu biết. Tôi đáp rằng, tôi có cơ duyên được biết tác giả Thiện Quả Đào Văn Bình là một nhà văn nổi tiếng, cũng là một vị tu học rất nghiêm túc, những gì anh viết lên đều từ thiện ý. Tôi cũng đáp rằng sẽ ghi nhận những lời chị Chân Huyền nói cho minh bạch toàn cảnh về ngộ nhận thường có về “thiền ôm”… Đó là lý do có bài viết này, và sẽ dựa vào chánh pháp để thảo luận.

Trước tiên, xin tâm sự rằng bản thân tôi có giao tình rất mực thân thiết với Thầy Giác Thanh, một học trò lớn đã quá cố của Thầy Nhất Hạnh. Bản thân cũng đã tận lực hỗ trợ cho Làng Mai trong các chuyến đi hoằng pháp tại Việt Nam, và luôn luôn xem anh Chân Văn và chị Chân Huyền vừa là anh chị trong đạo và vừa là hai vị trưởng thượng trong nghề báo hải ngoại. Đồng thời, tôi cũng luôn luôn nhìn Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình như một vị đại sĩ hộ pháp rất mực tôn quý. Do vậy, bài viết này sẽ thảo luận về vấn đề rộng hơn: rằng mỗi người sẽ có một pháp thích nghi riêng, rằng không phải pháp nào cũng thích nghi với tất cả mọi người.

Trước tiên, xin ghi lời nhà văn Chân Huyền:

--- Không hề có chuyện “ôm nhau ngồi thiền” tại Làng Mai.

--- Sau khi Thầy Nhất Hạnh được góp ý từ một số vị tôn túc tại Việt Nam, “Thiền ôm” chỉ còn là một pháp ứng xử giữa cư sĩ, trong khi các tu sĩ Làng Mai không còn dùng nữa.

--- Thầy Nhất Hạnh không ưa chuyện thị phi, và Thầy không hề có ý vướng vào các chuyện tranh cãi. Chị Chân Huyền kể rằng Thầy Nhất Hạnh thường nói với học trò chuyện Sư Cụ Thanh Quý (Chùa Từ Hiếu) truyền đăng cho Thầy Nhất Hạnh năm 1960 qu bài kệ 4 câu, với hai câu đầu là “Nhất hướng phùng xuân đắc kiện hành / Hành vô hành hạnh, diệc vô tranh” trong đó pháp hiệu Thầy Nhất Hạnh có trong cả hai câu (Phùng Xuân / Hạnh)…

Và bây giờ, xin phép thảo luận rộng hơn.

*

Thầy Nhất Hạnh đã nghĩ ra nhiều chữ gây chú ý: Thiền lạy, Thiền lái xe, Thiền ăn, Thiền quít, Thiền rửa chén, Thiền tắm, Thiền ôm, và vân vân. Chữ “Thiền” trong các nhóm chữ đó có nghĩa là “Chánh niệm”… Khi dịch sang tiếng Anh, Thầy dùng chữ “mindfulness”…

Thí dụ, “Thiền tắm” được Thầy Nhất Hạnh giải thích như sau, trích:

Chúng ta có thể đặt tên cho phương pháp này là thiền tắm. Sau một ngày làm việc mệt mỏi, khi bước vào nhà tắm chúng ta hãy tắm một cách thật chánh niệm, đừng có vội vã tắm cho nhanh để đi ăn tối hoặc đi làm cái khác. Chúng ta phải biến nhà tắm thành thiền đường và hai mươi hay ba mươi phút ấy là những giờ phút rất thiêng liêng. Chúng ta buông thư tất cả những căng thẳng trong thân và trong tâm, mỉm cười để cho những tia nước mát hoặc những tia nước ấm phả vào người mình, gột sạch đi những bụi bặm trên thân và làm lắng dịu những lao xao trong tâm. Sau khi bước ra khỏi nhà tắm ta sẽ trở nên tươi mát, sảng khoái vì trong lúc tắm những trị liệu đã xảy ra.

Chánh niệm là một loại năng lượng mình có thể chế tác ra được trong mỗi giây phút, trong khi đi, khi ngồi, khi ăn cơm, khi làm việc… Có chánh niệm rồi thì ta mới có khả năng nhận diện, chăm sóc, chữa trị cho những nỗi khổ niềm đau.” (1)

Như thế, là để “chữa trị cho những nỗi khổ niềm đau.”

Có phải, nếu chỉ như thế, tất cả các tín đồ tôn giáo khác đều có thể ứng dụng được? Hình như thế, vì trong sách “An Lạc Từng Bước Chân” Thầy Nhất Hạnh có viết về chánh niệm trong “Bí tích Thánh thể” do Chúa Jesus thiết lập cho các linh mục Thiên Chúa Giáo. Nghĩa là, Thầy Nhất Hạnh giản lược các yếu tố Phật Giáo để chỉ còn yếu tố “tỉnh thức” cho tất cả mọi người ứng dụng trong mọi trường hợp.

 

Tương tự, Thầy Nhất Hạnh viết về "Thiền ôm" với nhịp ba hơi thở trên trang Làng Mai tiếng Anh, trích:

“We may practice hugging meditation with a friend, our daughter, our father, our partner or even with a tree. To practice, we first bow and recognize the presence of each other. Then we can enjoy three deep conscious breaths to bring ourselves fully there. We then may open your arms and begin hugging. Holding each other for three in-and-out breaths. With the first breath, we are aware that we are present in this very moment and we are happy. With the second breath, we are aware that the other is present in this moment and we are happy as well. With the third breath, we are aware that we are here together, right now on this earth, and we feel deep gratitude and happiness for our togetherness. We then may release the other person and bow to each other to show our thanks.” (2)

Nơi đây, xin phép dịch như sau: “Chúng ta có thể thực tập Thiền ôm với một người bạn, với con gái của mình, với bạn tình (hay phối ngẫu), hay ngay cả với một thân cây. Để thực tập, chúng ta trước tiên cúi đầu chào và nhận diện sự có mặt của nhau. Rồi chúng ta vui trong ý thức về ba hơi thở sâu để tỉnh thức tròn đầy nơi đó. Ôm nhau trong ba hơi thở vào và ra. Với hơi thở đầu tiên, chúng ta ý thức rằng chúng ta hiện diện trong khoảnh khắc này và chúng ta hạnh phúc. Với hơi thở thứ nhì, chúng ta ý thức rằng người kia có mặt trong khoảnh khắc này và chúng ta hạnh phúc. Với hơi thở thứ ba, chúng ta ý thức rằng chúng ta cùng nhau có mặt nơi đây, ngay lúc đó trên mặt đất, và chúng ta cảm nhận ơn sâu và hạnh phúc vì cùng bên nhau. Rồi chúng ta có thể buông người kia ra và cúi chào nhau để bày tỏ lòng cảm ơn.”

.

Thực ra, giữ Chánh niệm trong mọi trường hợp – nghĩa là, trong khi đi đứng nằm ngồi – là lời Đức Phật và chư Tổ dạy. Nghĩa là, Thiền suốt ngày, cả sáng trưa chiều tối, là hạnh tinh tấn. Tuy nhiên, các Tổ sư không định danh về  nhiều thứ Thiền như thế. Vì bất kỳ ngôn ngữ nào hiện lên đều dựng thêm một bức màn ý thức ngăn che thực tại. Còn chuyện thường định là tất nhiên của hạnh người tu Thiền.

Thí dụ, trong Chương Ngộ Tánh Luận, trong sách Thiếu Thất Lục Môn, bản dịch HT Thích Thanh Từ, nơi trang 129-130 trên bản PDF, trích như sau:

Nếu người biết sáu căn không thật, ngũ uẩn là giả danh, toàn thể mà cầu ắt không có định xứ (tức là không có chỗ nhất định), phải biết người này hiểu được lời Phật nói. Kinh nói rằng: “Ở trong nhà ngũ uẩn ấy là Thiền viện. Ở trong chiếu soi mở sáng, tức là cái cửa Đại thừa. Chẳng nhớ tất cả pháp mới gọi là Thiền định.” Nếu rõ được lời nói này thì đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền định. Biết tâm là không [thì]  gọi là thấy Phật.” (3)

Bản phiên âm Hán Việt là: “Nhược liễu thử ngôn giả, hành, trụ, toạ, ngoạ giai thị thiền định. Tri tâm thị không, danh vi kiến Phật.” (Nếu hiểu được  lời nói đó, thì đi đứng nằm ngồi đều là thiền định. Biết tâm là Không, thì gọi là Thấy Phật.) Đây cũng là lời Đức Phật dạy trong nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, được tứ chúng tụng kinh hàng ngày trong khi Đức Phật sinh tiền.

.

Có một thực tế, chúng ta nên thấy rằng không nên ứng dụng “Thiền ôm” với bất kỳ ai. Vì không phải ai cũng cầm lòng đặng trong ba hơi thở khi ôm người khác phái. Thêm nữa, tâm phân biệt sẽ khởi lên. Thí dụ, ôm em bé hôi mùi sữa, sẽ khác với ôm một ông cụ nằm bệnh nhiều ngày chưa tắm gội. Trong khi đó, nếu nam và nữ thực tập ôm nhau, dị tâm sẽ sinh khởi: mùi hương tóc, mùi nước hoa, làn da mịn khi áp mặt vào nhau, vòng tay sau lưng sẽ nhận ra các lằn áo nịt ngực, và vân vân. Nếu có ai không khởi dị tâm, hẳn là bậc thánh hay đã mấp mé bậc thánh rồi.

Thực sự, khi ôm một người thân (như ba mẹ, con cháu, người hôn phối…) sẽ sinh ra thọ lạc (cảm thọ về vui sướng), và cảm thọ này có thể giúp tạm thời xoa dịu các nỗi đau, giúp tạm thời tạo được sự cảm thông giữa các quan hệ tình cảm (như tình bạn, tình mẹ con, cha con…). Nhưng thọ lạc về thân có thể sẽ dẫn tới nguy hiểm.

Trong Trung Bộ, Kinh MN 22, bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu ghi lời Đức Phật dạy rằng khi thọ dụng các dục (niềm vui các căn ở thân xác: mắt thấy đẹp, tai nghe du dương, mũi ngửi hương thơm…) tất nhiên sẽ khởi ra các dục tưởng (sensual perception) và dục tầm (sensual thinking). Đức Phật nói không thể nào thọ dụng dục (sensual pleasures, vui sướng với các căn) mà không niệm về dục (dục tưởng) cũng như không nghĩ ngợi lan man về dục (dục tầm).

Trích Kinh MN 22, bản dịch Thầy Minh Châu, nói về bất khả này: “Thật sự, này các Tỷ-kheo, sự kiện này không xảy ra, người ta có thể thọ dụng các dục ngoài các dục, ngoài các dục tưởng, ngoài các dục tầm.” (4)

Kinh MN 22, bản Anh dịch của Sujato, nói về bất khả này: “Truly, mendicants, it’s not possible to perform sensual acts without sensual pleasures, sensual perceptions, and sensual thoughts.” (4)

Kinh MN 22, bản Anh dịch của Bodhi, nói về bất khả này: “Bhikkhus, that one can engage in sensual pleasures without sensual desires, without perceptions of sensual desire, without thoughts of sensual desire—that is impossible." (4)

Kinh MN 22, bản Anh dịch của Thanissaro, nói về bất khả này: “For a person to indulge in sensual pleasures without sensual passion, without sensual perception, without sensual thinking: That isn't possible.” (4)

Đặc biệt, Đại sư Thanissaro trong ghi chú số 4 dưới Kinh MN 22 đã viết rằng có một Luận thư ghi rằng các hành vi bày tỏ ưa muốn tính dục như ôm và vỗ về đều bị cấm (the Sub-commentary adds that other acts expressing sexual desire — such as hugging and petting — should be included under this phrase as well).

Hiển nhiên, Thầy Nhất Hạnh không có ý vẽ đường cho hươu chạy, vì Thầy trong phần hướng dẫn “Thiền ôm” dịch ở trên đã gạt bỏ yếu tố “sexual desire.” Nhưng lằn ranh sẽ rất là mong manh đối với người đời thường.

.

Có một yếu tố nữa nên thấy: trong khi giữ tâm tỉnh thức cao độ, các vui sướng ở các căn sẽ tăng cao độ. Và đó là lý do các bác sĩ tâm lý đang viết các loại sách về, kiểu như, “Tỉnh thức trong tình dục” để tăng cảm thọ cao độ nơi các căn. Và cũng mở các khóa hướng dẫn dùng Thiền tỉnh thức để tăng thọ lạc.

Nếu vào trang Amazon, chọn “Books” (Sách) và gõ nhóm chữ “mindfulness for sex” (tỉnh thức để vui sex) sẽ thấy có 905 cuốn sách có bìa có các chữ liên hệ:

--- 1-16 of 905 results for Books: "mindfulness for sex"…

Do vậy, chúng ta nên tránh để người đời thường chỉ nghe qua tin đồn “Thiền ôm” rồi suy nghĩ sai trái về tứ chúng nhà Phật. Thậm chí, thời này, ai cũng có điện thoại thông minh, chỉ cần một tấm ảnh “ôm nhau” cũng sẽ gây sóng gió ngộ nhận.

.

Tới đây chúng ta cũng nên nói rằng những người chưa hiểu sâu giáo lý, trong khi Thiền định, đặc biệt là Niệm Thọ, có thể dễ dàng ngộ nhận khi gặp ảo cảnh. Như trường hợp cô Megan Vogt, 25 tuổi, khoảng 10 tuần sau khi tham dự khóa Thiền 10 ngày theo phương pháp của ngài Goenka đã tự sát vì có ảo tưởng rằng cô cần chết để cứu mạng gia đình cô. Và cô không phải trường hợp duy nhất tự sát sau khi dự khóa Thiền.

Sau đó là những cuộc thảo luận bùng nổ trên các mạng về Thiền tập. Bản tin về cô Vogt và thảo luận của các mạng Thiền tập có links ở (5).

Thực ra, chúng ta không thể kết luận tổng quát, vì mỗi trường hợp đều có những yếu tố cá biệt. Nhưng nếu theo đúng lộ trình Văn (Học giáo pháp), Tư (Suy nghĩ, biện biệt) và Tu (Giới, Định, Huệ) thì không bao giờ trở ngại. Chưa hiểu giáo lý, chưa tin nhân quả, chưa tin Tam bảo, chưa quy y thọ giới, thì không nên vào thẳng các Thiền thất. Trong mọi trường hợp, điều chúng ta cần nhất là: ly dục. Thà tránh xa, hơn là thử nghiệm.

GHI CHÚ:

(1) Thiền tắm: https://langmai.org/thien-duong/hanh-phuc-la-con-duong/thien-tam/

(2) Hugging Meditation: https://plumvillage.org/extended-mindfulness-practises/

(3) Thiếu Thất Lục Môn: https://thuvienhoasen.org/images/file/0P2hpp1G0QgQAHwt/thieuthatlucmon.pdf

(4) Kinh MN 22, bản của HT Minh Châu: https://suttacentral.net/mn22/vi/minh_chau

Bản Sujato: https://suttacentral.net/mn22/en/sujato

Bản Bodhi: https://suttacentral.net/mn22/en/bodhi

Bản Thanissaro: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.022.than.html

(5) --- Did 10-day meditation retreat trigger woman's suicide?

https://www.pennlive.com/news/2017/06/york_county_suicide_megan_vogt.html  

--- Discussion after the suicide:

https://www.dharmaoverground.org/discussion/-/message_boards/message/6387143  

--- Discussion on Vipassana forum: Bad experience at Goenka retreat

https://www.vipassanaforum.net/forum/index.php?topic=672.0

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2013(Xem: 6389)
Trước đây, tôi bắt đầu cuộc thảo luận này bằng cách nói về phương thức mà các pháp tồn tại chỉ đơn thuần do tâm quy ước và tiếp tục giải thích rõ các pháp chỉ mang tính quy ước là không đủ để chúng tồn tại, bởi vì một vật nào đó chỉ đơn thuần bị quy ước thì không có nghĩa nó tồn tại. Tôi tiếp tục trình bày về ba phạm trù cần thiết đối với một pháp tồn tại: nền tảng hợp lý, không có tổn hại xuất phát từ tâm vững chải của người khác và không có tổn hại xuất phát từ trí tuệ nhận thức tánh không.
31/10/2013(Xem: 18554)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 39621)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 63338)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 30308)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 41410)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
06/10/2013(Xem: 9327)
Con người chỉ là một loài động vật. Nhưng lại là một loài động vật hơn hẳn tất cả các loài khác trên mặt đất này. Các loài thú thường thì có loài phải sống tập đoàn, có loài chỉ sống riêng lẻ, trừ những lúc cần gặp nhau để giao phối, rồi lại trở về cuộc sống riêng biệt. Loài người, trái lại, có thể sống quây quần bên nhau nhưng lại có những riêng tư --nhiều khi đó lại là những riêng tư không thể chia sẻ với ai được, sống để bụng chết mang theo:
18/09/2013(Xem: 14108)
Bản luận này ngoài các bài tựa ra còn có 26 chương. 25 chương đầu trình bày cụ thể triết lý căn bản giáo lý Phật giáo, giải thích hiện tượng vũ trụ nhân sinh quy về bản thể Chân như tuyệt đối. Chương thứ 26 trình bày vai trò của pháp tu Tịnh độ; và có phải đây là mục đích Luận chủ giúp người đọc trước hết nhận thức rõ ràng vấn đề và sau đó tìm về một pháp tu thích hợp? Mong những ai có dịp đọc trọn tác phẩm này có thể tìm được câu trả lời cho chính mình!
26/06/2013(Xem: 12020)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta ra khỏi đại dương của Luân hồi, cơ sở con người đó giúp ta biết lắng nghe, suy nghĩ và thiền định, cả ngày lẫn đêm không ngưng nghỉ, đấy là cách tu tập của những người Bồ-tát.
24/06/2013(Xem: 5378)
Nhiều năm về trước, tôi đã không đồng tình về nhiều dịch bản cũng như bình giải về bài kệ thơ “Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô...” trước khi thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh. Dường như chưa có dịch giả nào đào xới cái vỉa quặng giáo pháp ẩn giấu kín đáo dưới 28 con chữ cô đọng của bài thất ngôn tứ tuyệt ấy. Tôi chờ đợi. Và cứ chờ đợi mãi xem thử có ai giải mã nó không. Hằng năm. Hằng chục năm như thế. Vẫn tăm bóng. Nghĩ mình vốn liếng chữ Hán bỏm bẻm không có bao nhiêu,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]