Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu trích từ số 1-10

16/03/201920:28(Xem: 3656)
Câu trích từ số 1-10

Phat_Thich_Ca_10

Những Viên Ngọc Trai của Andrew

Nguyên bản Anh Ngữ: 
Dharma Teacher Acharya Andrew Williams  

Việt dịch:

Quảng Tịnh Kim Phương

Câu trích từ số 1-10



Câu trích 1: Sự bất đồng không nhất thiết phải đưa tới tranh cãi

Người xưa có câu: "Đồng thuận với sự bất đồng". Khi chúng ta bất đồng với ý kiến của ai đó hay họ không đồng ý kiến với chúng ta, điều đó cũng bình thường, khi tất cả chúng ta nhận thức và hiểu mọi thứ đều khác nhau. Không cần thiết phải tranh luận sau những bất đồng.

Khá thông thường, chúng ta giữ chặt ý kiến của mình về những điều như thế hoặc không như thế, hoặc là những điều này đúng hay sai, và khi có ai bất đồng quan điểm với chúng ta thì chúng ta cảm thấy bị xúc phạm. Thậm chí chúng ta cảm thấy như bị tấn công,  rồi giận dữ và đánh trả lại. Điều này không lành mạnh và không có lợi ích gì để tạo nên sự hiểu biết và bình an.

Cũng vậy, chúng ta có thể nói có hai loại tranh luận (hay tranh cãi), 'tích cực' và 'tiêu cực'. Một cuộc tranh luận 'tích cực' dựa trên có chủ ý có lợi cho cả hai và giúp đỡ lẫn nhau để phát triển sự hiểu biết chân thật. Trong khi đó, tranh luận 'tiêu cực', dựa trên sự ích kỷ, và thường dẫn đến tranh cãi vì chúng ta cố thắng điều gì đó và cố giữ quan điểm của mình. Vì vậy một 'cuộc tranh luận tích cực' dẫn tới một kết quả tích cực và một 'cuộc tranh luận tiêu cực' dẫn đến một kết quả tiêu cực. Hãy tử tế, hãy kiên nhẫn. Các bạn hãy đặt quan điểm và ý kiến của mình dựa trên sự tử tế, từ bi và hiểu biết. Dựa trên những gì có lợi cho tất cả. Tất cả giống như một giấc mộng vậy.

 

Câu trích 2: Một nơi được gọi là hoàn hảo để thực hành Pháp được xác định bởi nhận thức của chúng ta

Nhiều tu viện, chùa và trung tâm tu học đã được xây dựng khắp thế giới, với nguyện vọng để cung cấp những nơi để học, thưc hành và chia sẻ Phật pháp, và cho phép hành giả tiếp cận những môi trường thích hợp và hỗ trợ để phát triển và thực hành giáo lý, thiền và trí tuệ, để đạt đến sự hoàn hảo Ba La Mật.

Tuy nhiên, thật cần thiết cho tất cả Phật tử nhận thức rằng chúng ta với hết khả năng của mình phải thực hành pháp một cách kiên trì và liên tục, bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào.

Thông qua việc hành trì miên mật, chúng ta sẽ nhận thức được rằng bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào cũng là thời gian và nơi chốn hoàn hảo để thực hành Pháp.

 

Câu trích 3: Mỗi học viên là một giáo viên tương lai

Một Phật tử học giáo lý Phật Đà và thực hành đúng những pháp môn này, nương tựa vào lời lời Phật dạy trong Tam Tạng Kinh, và lắng nghe, học hỏi, đối chiếu và hành thiền theo những lời dạy này, cũng như dẫn giải và giải thích những lời dạy của các thầy dạy giáo lý đáng tin cậy.

Nuôi dưỡng tâm thanh tịnh, học hỏi và hiểu biết rõ ràng những phương cách áp dụng và nổ lực tinh tấn thực hành, học viên sẽ thiết lập kiến thức sâu sắc.

Với việc học hỏi đều đặn và kiên định, tư duy và thực hành, học viên sẽ phát triển kiến thức gián tiếp và cuối cùng đến kiến thức trực tiếp và trải nghiệm. 

Khi kiến thức và thực hành Phật pháp của các học viên khá tốt, họ có thể truyền đạt qua hành động và lời nói của mình. Họ hoặc thông qua những buổi thuyết giảng và hướng dẫn Phật pháp chính quy, hay đơn giản sinh hoạt với những người khác theo phương cách có ý nghĩa, ân cần và hòa nhã. Nhờ vậy, những học viên nhiệt tâm sẽ trở thành giáo viên. Theo cách này hay cách khác tất cả chúng ta là học viên và cũng là giáo viên.


Câu trích 4: Nuôi dưỡng nhân hạnh phúc, từ bỏ nhân khổ đau

Tất cả chúng ta đều ước mơ có hạnh phúc và tránh được khổ đau. nhưng thông thường chúng ta lại sống ngược lại với những mong ước này. Chúng ta tham đắm chạy theo hạnh phúc như thể đó là điều mà chúng ta có thể nắm bắt được và cảm thấy tức giận khi chúng ta trải nghiệm nỗi khổ đau nào đó.

Chúng ta cần thay đổi cách chúng ta suy nghĩ và hành xử. Chúng ta cần học hỏi, tư duy và thấu hiểu Luật Nhân Quả của vũ trụ, của  nguyên nhân và kết quả. Nếu chúng ta muốn hạnh phúc và không phiền não, chúng ta phải giữ tâm thoát khỏi ảo giác, tham lam và sân si, giữ cho tâm sáng suốt, bao dung và từ bi. Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh được an lạc và hạnh phúc.

 

Câu trích 5: Sân hận hủy diệt sự bình yên

Bản chất tự nhiên của sân hận có nguồn gốc từ ba độc tố của vô minh, cố chấp và ganh ghét. Sự an lành có được nhờ loại bỏ vô minh, không dính mắc và không ác cảm. Người sân hận gieo nghiệp không tốt cho chính mình, củng cố và gia tăng thói quen suy nghĩ, hành động và nói năng đầy sân hận. Cũng vậy, điều đó sẽ ắt hẳn là trải nghiệm không an lành với chủ ý sân hận của mình.

 

Câu trích 6: Tất cả chúng sanh đều mong cầu hạnh phúc và tránh khổ đau. Khi chúng ta nhận thức rằng chúng ta đều có liên hệ lẫn nhau, tất cả chúng sanh đều là cha mẹ trong vô lượng kiếp trước, điều này hiển nhiên rằng chúng ta nên phát triển và thực hành lòng yêu thương chân thật, lòng biết ơn và lòng tôn kính đối với tất cả, làm bất cứ điều gì mà chúng ta có thể làm được để giúp mang lại hạnh phúc.

Chúng ta nên phát triển và thực hành ý niệm độc nhất, phi thường và vị tha được gọi là Bồ Đề Tâm (còn gọi là: tâm giác ngộ), lòng từ bi bao la rộng lớn, ước muốn đạt được giác ngộ vô thượng để đem đến lợi lạc cho chúng sinh, và dẫn dắt chúng sanh đạt được giác ngộ vô thượng. Chúng ta nên phát triển và thực hành Bồ Đề tâm trong mọi khát vọng và hành động của chúng ta.

Nhận thức chúng sanh như là người mẹ của một người, và với ý định cương quyết, quan tâm đến sự tử tế phi thường của họ, ước nguyện hồi đáp lòng tốt của họ với tình thương và lòng bi mẫn bao la, dựa trên niềm tin thanh tịnh vào kết quả của việc thực hành này.

Chúng ta hãy giữ cho tâm bình thản vượt qua những định kiến, tâm từ bi để khắc phục sự tàn ác, tình thương để khắc phục cơn giận và niềm vui đồng cảm để vượt qua sự căm ghét, để lợi lạc chúng sanh.

 

Câu trích 7: Tất cả hiện tượng có điều kiện, cả về thể xác lẫn tinh thần, làm phát sinh và ngừng lại lệ thuộc vào nhân quả. Không có hiện tượng có điều kiện thoát khỏi nhân quả.

Tất cả các hiện tượng đều phụ thuộc vào nhân quả, và vì vậy là tác động của nhân. Chẳng hạn, bất cứ lúc nào một ý nghĩ hay cảm giác trong tâm ta phát sinh, nó phát sinh phụ thuộc vào những ý nghĩ và cảm giác trước đó.

 

Cũng vậy, hiện tượng thể xác như cơ thể của chúng ta và tự nhiên đều phát sinh dựa trên nhân và điều kiện. Lấy ví dụ như một bông hoa, nó phát triển phụ thuộc vào hạt giống, bụi cây hay cây, và cành, cùng với sự cân bằng của những yếu tố nước, đất, sức nóng và chuyển vận.

 

Không có các hiện tượng nào về thể xác và tinh thần phát sinh đơn độc. Vì vậy tất cả các pháp trên đời này luôn ở dưới dạng tánh không duyên khởi.

Câu trích 8: Tất cả các hiện tượng đều phụ thuộc vào những điều kiện nhân quả

 

Tất cả các hiện tượng có điều kiện, cả về thể xác lẫn tinh thần, đều phát sinh và ngừng phụ thuộc vào nguyên nhân, điều kiện và tác động. Không có các hiện tượng có điều kiện thoát khỏi nhân quả

 

Câu trích 9: Tất cả những truyền thống triết lý và tôn giáo đều dạy đạo đức và con đường đưa đến bình an cho cá nhân và tập thể, nếu chúng ta sống ngược lại với những lời dạy này thì sự bình an sẽ không bao giờ có được đối với cá nhân hay tập thể.

 

Mặc dù nền tảng những lời dạy, niềm tin, mục đích, phương pháp và tương tự thay đổi giữa những truyền thống triết lý và tôn giáo khác nhau, theo cách này hay cách khác, chúng đều khuyến khích các hành giả sống đạo đức và phát triển bình an và thấu hiểu cho cá nhân và tập thể.

 

Nhưng nếu các hành giả không hìểu những lời dạy và phương pháp này, và không áp dụng vào thực tế thì những mục tiêu mong muốn sẽ không bao giờ đạt được. Chẳng hạn như nếu chúng ta có trong tâm một nơi mà chúng ta muốn đến, kế đến cần có một người chỉ đường hay một bản đồ tốt để biết đường đến đó, và kế đó không nghiên cứu bản đồ hay theo người dẫn đường, và hoặc hay không bao giờ nổ lực dấn thân vào cuộc hành trình, chúng ta sẽ không bao giờ đến nơi mà mình mong muốn. Chúng ta thậm chí có lẽ đi rất nhanh theo phương hướng sai lầm.

Cũng vậy, điều quan trọng để lưu ý rằng thật là vô lý để trông chờ những kết quả tốt nếu chúng ta chất chứa những suy nghĩ, hành động và lời nói gây tại hại và vô đạo đức. Vì vậy hãy suy nghĩ, hành động và nói có đạo đức, vì đạo đức giống như nền móng của một ngôi nhà. Không có nền móng vững chắc và kiêng cố, những bức tường và mái nhà sẽ sụp đổ.

Câu trích 10: Thật sự tất cả chúng ta cần để tồn tại là không khí để thở, nước để uống, thực phẩm để ăn và chỗ để nghỉ ngơi và bảo vệ chúng ta khỏi những yếu tố này. Việc nghỉ ngơi không phải là chuyện của chúng ta, chúng ta chỉ chọn để khiến nó là chuyện của mình.

Con người chúng ta có khuynh hướng tự gây cho chính mình quá nhiều căng thẳng và lo âu không cần thiết, điều đó dẫn đến chúng ta dễ bị trầm cảm và chán nản, liên tục đi tìm hạnh phúc và giảm bớt đau khổ.

Chúng ta thường cảm thấy hối tiếc và than van có liên quan đến những gì chúng ta nghĩ chúng ta đáng lẽ ra nên, có thể nên và sẽ làm trong quá khứ, và những gì chúng ta nghĩ chúng ta đáng lẽ ra không nên làm, có thể không làm và sẽ không làm trong quá khứ. Điều này dẫn dắt chúng ta suy nghĩ về tương lai, hơn là đơn giản trải nghiệm cuộc sống quý giá này, trong chốc lát, ở đây và bây giờ, chấp nhận, tha thứ và hài lòng.

Chúng ta liên tục đuổi theo lợi, danh, lời khen và vui thích và cố gắng tránh thất bại, xấu hổ, chỉ trích và nỗi đau. Không nhận thức được rằng những điều kiện này là vô thường và không vững chắc.

Vì vậy, chúng ta nên nổ lực hết mình để tự thoát ra khỏi dính mắt đối với những cơn gió thế giới này dập tắt con đường chúng ta đi đến giải thoát. Chúng ta hãy tự thoát ra khỏi những dính mắt muốn cái này và không muốn cái kia. Chúng ta hãy chỉ để các thứ như chính chúng vậy và chúng ta có lẽ chỉ nhận thức được rằng chúng ta cũng tốt theo cách của chúng ta.

 








 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2015(Xem: 11164)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ? I . Triết học là gì? Triết học (philosophy) là một từ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp cổ đại: philosophia ( tiếng phiên âm theo Anh văn), có nghĩa là lòng yêu mến sự hiểu biết. Nói rộng hơn, triết học là những quan niệm, tư tưởng, thái độ của một cá nhân hay một nhóm người siêu việt.
19/07/2015(Xem: 10497)
Khi còn trong phiền não trói buộc thì Chơn Như là Như Lai Tạng. Khi ra khỏi phiền não thì Chơn Như là Pháp Thân. Trong Phật Tánh Luận chữ Tạng có 3 nghĩa như sau: 1/- Chân Như lập ra 2 nghĩa: - Hòa Hiệp: sanh ra tất cả các Pháp “nhiễm”. (2)- Không Hòa Hiệp: Sanh ra tất cả Pháp “thanh tịnh”. Tất cả các Pháp Nhiễm và Thanh Tịnh đều thuộc Như Lai Tạng, tức là Thâu Nhiếp Chơn Như, gọi là Như Lai Tạng. Tức là Chân Như thâu nhiếp tất cả Pháp. Hay gọi Như Lai Tạng là tất cả Pháp cũng cùng ý nghĩa đó.
02/07/2015(Xem: 15207)
Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi. Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian - môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.
01/07/2015(Xem: 23842)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 11042)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
24/06/2015(Xem: 30601)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 9608)
Bài Tâm Kinh Bát Nhã có tất cả 7 chữ 'Không" trong đó chữ "Không Tướng" đã được đề cập, ngay ở câu văn thứ ba: "Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng..."(Xá Lợi Tử ! Tướng Không của các pháp...). Nếu hiểu 'chư pháp' (các pháp) ở đây chính là các pháp đã vừa được nêu ra ở câu văn thứ nhì ("Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị") thì các pháp này chính là Ngũ Uẩn pháp và chính câu văn kinh thứ nhì này đã khai thị về Không Tướng (và cả Không Thể) của Ngũ Uẩn.
15/06/2015(Xem: 23365)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/06/2015(Xem: 6427)
Các thuật ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
11/06/2015(Xem: 11769)
Tám Bài Kệ Chuyển Hóa Tâm và Phát Khởi Bồ Đề Tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 giảng. Thích Hạnh Tấn dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]