Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duy Ngã và Vô Ngã

01/02/201907:43(Xem: 8862)
Duy Ngã và Vô Ngã
Phat thuyet phap 2
Duy Ngã và Vô Ngã
Lê Huy Trứ

 
Phi tiết lộ
 
Những câu văn không chuẩn văn phạm vì thiếu những chủ từ [subjects] trong những bài triết luận về Phật Giáo mà tôi đã, đang, và sẽ viết không phải là tôi cố ý lập dị như những triết gia danh tiếng trên thế giới khi họ hành văn (chương) và viết về triết học nhưng mà tôi không có thể làm cách nào khác hơn khi viết về ý vô ngã [không Tôi] để không bị mâu thuẫn với ý phá ngã.
 
Bản ngã [cái Ta, chủ từ, chủ nhân ông/bà] chỉ có hiện hữu trong tâm tưởng, và nó được thể hiện qua ngôn ngữ với tâm chấp ngã, và ý phân biệt, tánh duy ngã độc tôn của mỗi cá nhân sinh.
 
Chấp ngã là tập quán vô minh từ vô lượng kiếp của mỗi cá nhân trong đám bụi hư lân trần người trong vũ trụ bao la.
 
“Cộng ngã” tuy thường được dùng như là tập thể để kêu gọi cá nhân đặt quyền lợi của cộng đồng trên hết nhưng thật ra nó chỉ là tổng hợp của những quyền lợi của biệt ngã với một mục đích chung đầy tham vọng hơn.
 
Ngã
 
Sau khi những loài khủng long bị diệt chủng, chỉ có một loại động vật duy nhất trên trái đất này tiến hóa để có được cấu tạo của 18 căn trần thức, và để có thể cảm nhận hoàn toàn khoái lạc và đau khổ trong cái nhục thể đó là con người. 
 
Có thể chưa có động vật nào trong vòng Thái Dương Hệ tiến hóa hơn loài người để được may mắn và ân huệ có được cái nhận thức khoái lạc và đau khổ này.
 
Cho nên, nếu đời mất khoái lạc và đau khổ rồi thì cái bản ngã vô nghĩa này còn sống với ai?
 
Đời mất “nó” rồi thì “ta” vui buồn với ai?
 
Không nó thì làm gì có ta?
 
Vậy thì nó cần thiết hay quan trọng?
 
Nó là những gì chúng ta (mong) muốn hay là những gì chúng ta cần (thiết) trên cuộc đời vô thường, tạm bợ này?
 
Đây là vấn đề rất khó giải thích cho chúng sinh còn chấp vào duyên sanh với tập tục phân biệt nhị nguyên đã ăn sâu vào tâm khảm từ vô lượng kiếp.  
 
Vì tuy chúng sinh duyên nghiệp bất đồng nhưng đồng căn bệnh duyên sanh.
 
Tuy nhiên, chúng sinh tuy đồng căn bệnh duyên sanh nhưng căn trí thì bất đồng.
 
Cá nhân là một phân tử của chúng sinh.  Đồng thể nhưng khác căn.
 
Cá nhân không thể trường tồn nếu không có chúng sinh.
 
Tương tự, cơ thể của mỗi cá nhân có chừng 200 tỷ tế bào.  Những tế bào và những chủng tử trong cơ thể chúng ta được cấu tạo bởi cùng những nguyên tử (Paramaa Anu or Aadhi Anu in Vedas,) những điện tử, những carbons, ... như mọi vật chất trong vũ trụ.
 
(The cells and molecules in our bodies are made up of the same atoms, electrons, carbons, etc. as everything in the universe.)
 
Mỗi tế bào như mỗi cá nhân, chúng nó khi được quan sát qua nhục nhãn cứ tưởng giống nhau nhưng thật ra chúng sinh đó có những diện mục rất đặc thù với bản lai bất đồng.
 
Mỗi cá bào này tuy cùng thể nhưng khác tánh.  Có nghĩa là chúng bào cùng sinh diệt nhưng khác bản tính.
 
Tự nó cũng có bản ngã và tính linh, rung động để sinh trưởng, liên lạc, truyền tin, và quan hệ cùng với các tế bào khác để tạo thành cái nhục thân, một con người trong gần 7 tỷ nhân sinh.
 
Vậy thì cái bản ngã của cá bào này có thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn như bản ngã của cá nhân không?
 
Và cái bản lai diện mục của cái ngã đó là gì tuy cần thiết nhưng thật có quan trọng trong cái nhục thể không đáng kể này khi nó dở chứng?
 
Cái bản ngã nào tham khả đắc?
 
Tôi mạo muội mượn ý Đức Phật quở dạy Ngài Tu Bồ Đề và Ngài Ca Diếp:
 
Nên hiểu “phật” này cũng có thể là bản ngã quở dạy bản bào.
 
Cũng có thể bản bào quở dạy bản lượng tử.
 
Bản lượng tử quở dạy bản lân hư trần.
 
Nghiệp thân người gánh nặng vô minh có mắc mớ gì tới vô ngã?
 
Vô ngã chuyển cho gánh vô minh đó từ nặng tới nhẹ được không?
 
Cái nhục thân đó “ăn cơm nhà vát ngà voi,” nghiệp quả nặng nhẹ dính mắc gì tới vô ngã mà trợ duyên, rồi thì ngã vào nhậm vận?
 
Xoay chuyển lối tư duy vô minh từ những tập tục đầy thành kiến của duyên sanh đó mới thay đổi được nghiệp quả kia.
 
Theo Phật Quang Đại Tự Điển, một trong 18 cái không được gọi là vô sở đắc không (anupala-mbha-zùnyatà), tất cả các pháp như sống chết, niết bàn, ... tính, tướng đều tịch diệt, tìm không thể được.
 
Tôi xin đơn giản hóa, tức là do 3 cái không chẳng thể được đó là a) tìm ngã, ngã sở và tương tại trong ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới; b) tìm tự tánh của các pháp trong nhân duyên của chúng; c) tìm nhân duyên của các pháp trong tự tánh của chúng .
 
Năm uẩn và thế giới có mặt trong tự thân chân như của chúng; ý niệm của ta về năm uẩn và về thế giới là những ý niệm phát sinh từ các khuôn khổ có, không, thường và đoạn, vân vân… Các khuôn khổ này chỉ là những ý niệm không chứa đựng được thực tại, không nắm bắt được thực tại, cũng như một cái màn lưới không thể buông bắt được hư không. Đó là ý nghĩa của những tiếng không thành lập được, không nắm bắt được, rất quan trọng trong giáo lý đạo Bụt. Từ ngữ Anupalabhya được dịch là bất khả thi thiết và bất khả đắc trong tụng bản chữ Hán của kinh Người Bắt Rắn. Giáo lý bất khả thi thiết và bất khả đắc thật vô cùng quan trọng, nhưng trong các hệ phái Hữu bộ và Đồng diệp bộ, giáo lý ấy cũng đã không được khai thác đúng mức.”


Trong kinh Người Bắt Rắn, Alagaddūpamasutta,  Đức Thế Tôn giảng thuyết về ba loại ngã chấp: ngã, ngã sở và tương tại. Ngã là ta, ngã sở là của ta, và tương tại là trong ngã có ngã sở và trong ngã sở có ngã. 


Trong trường hợp tương tại, cái này nằm trong cái kia và cái kia nằm trong cái này. Nhân ở trong quả, quả ở trong nhân?


Vài bộ phái Phật Giáo sau này quan niệm, kiến chấp liên hệ với chủ trương Phi tức phi ly uẩn ngã (cái ta không phải là năm uẩn mà cũng không thể rời năm uẩn mà có.) 


Tạp A Hàm và Samyutta Nikaya thường đề cập đến ba phạm trù ngã chấp trên (ngã, ngã sở và tương tại).  Nhu yếu bám víu vào một cái ngã là tập tục muôn đời của con người.  Nhưng nếu không có những tập tục này thì có thể chúng ta không hiện hữu?


Đức Phật dạy rằng ý niệm về ta phát sinh từ ý niệm về của ta và ý niệm của ta được phát sinh từ ý niệm ta. Những ý niệm luẩn quẩn ấy đều là những vọng tưởng (perceptions) không có căn cứ, cho nên không có thể thành lập được mà cũng không có thể nắm bắt được. Thành lập và nắm bắt cái ngã chỉ đưa tới khổ đau, bơ vơ và thất vọng. Vì vậy những ý niệm về ngã, ngã sở, tương tại, và ngay cả thế giới hiện. tượng … đều chỉ là những khối vô minh, những nhận thức sai lầm, những kết sử (samyojana) trong tâm này chỉ là vô thường, không thật đưa đến đau khổ không cùng.


Đây là lời của Phật dạy:
Vì có ý niệm về ta cho nên có ý niệm về của ta; nếu không có ý niệm về ta thì không có ý niệm về của ta. Ta và của ta đều là những ý niệm không thể nắm bắt được, không thể thành lập được.”


Buông bỏ được gánh nặng chấp ngã là cứu cánh của ngộ không.
 
Thấy được tự tính vô ngã, ta sẽ thấy luôn được nguyên tắc duyên sinh, vì duyên sinh và vô ngã là một. Vạn vật đều do nhân duyên sinh khởi, vì vậy không vật nào có một tự thể riêng biệt và độc lập.” (Im lặng sấm sét, Kinh Người Bắt Rắn chú giải, Thích Nhất Hạnh)
 
Theo tôi, duyên sinh bất thị vô ngã.  Vô ngã bất thị duyên sinh. Vô ngã và duyên sinh không đồng nhất mà vô ngã từ duyên sinh mà ra. Nói theo luận lý toán học, vô ngã là một phần tử của duyên sinh.  Vô ngã là hạt mầm (chủng tử) ở trong nhân duyên sinh chờ kết quả ... để trở thành chấp ngã.
 
Vì cái này có nên cái kia có.  Cái kia không có thì cái này có không?
 
Vì cố chấp bản ngã này nên có cái vô ngã kia.  Cái bản ngã này không có thì cái vô ngã kia có không?

Hữu pháp kia không có thì làm sao mà tư nghị vô pháp được?
 
Lúc mà vô tánh, và vô duyên thì tự tánh và nhân duyên của các pháp không còn là vấn đề nữa để mà tìm hiểu.

Rốt ráo, chính cái “bản ngã” cũng là hư ảo, không có thật để mà, chấp và bám lấy vậy thì cái “vô ngã” có cần quan tâm tìm kiếm không?
 
Cho nên ngay chính cái “vô ngã” cũng không có thật để mà khả chấp “không ngã”.
 
Ngay cả,  mong cầu được vô ngã cũng sẽ bất khả chấp, bất khả đạt.
 
Cái thấy biết đó là điều kiện tiên quyết của trí huệ (bát nhã), quán vũ trụ giai không để đạt được giải thoát, giác ngộ, hòa hợp với vũ trụ, rốt ráo trở lại thành Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2013(Xem: 6432)
Trước đây, tôi bắt đầu cuộc thảo luận này bằng cách nói về phương thức mà các pháp tồn tại chỉ đơn thuần do tâm quy ước và tiếp tục giải thích rõ các pháp chỉ mang tính quy ước là không đủ để chúng tồn tại, bởi vì một vật nào đó chỉ đơn thuần bị quy ước thì không có nghĩa nó tồn tại. Tôi tiếp tục trình bày về ba phạm trù cần thiết đối với một pháp tồn tại: nền tảng hợp lý, không có tổn hại xuất phát từ tâm vững chải của người khác và không có tổn hại xuất phát từ trí tuệ nhận thức tánh không.
31/10/2013(Xem: 18611)
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.
30/10/2013(Xem: 40277)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 63881)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 30662)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 41709)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
06/10/2013(Xem: 9385)
Con người chỉ là một loài động vật. Nhưng lại là một loài động vật hơn hẳn tất cả các loài khác trên mặt đất này. Các loài thú thường thì có loài phải sống tập đoàn, có loài chỉ sống riêng lẻ, trừ những lúc cần gặp nhau để giao phối, rồi lại trở về cuộc sống riêng biệt. Loài người, trái lại, có thể sống quây quần bên nhau nhưng lại có những riêng tư --nhiều khi đó lại là những riêng tư không thể chia sẻ với ai được, sống để bụng chết mang theo:
18/09/2013(Xem: 14229)
Bản luận này ngoài các bài tựa ra còn có 26 chương. 25 chương đầu trình bày cụ thể triết lý căn bản giáo lý Phật giáo, giải thích hiện tượng vũ trụ nhân sinh quy về bản thể Chân như tuyệt đối. Chương thứ 26 trình bày vai trò của pháp tu Tịnh độ; và có phải đây là mục đích Luận chủ giúp người đọc trước hết nhận thức rõ ràng vấn đề và sau đó tìm về một pháp tu thích hợp? Mong những ai có dịp đọc trọn tác phẩm này có thể tìm được câu trả lời cho chính mình!
26/06/2013(Xem: 12145)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta ra khỏi đại dương của Luân hồi, cơ sở con người đó giúp ta biết lắng nghe, suy nghĩ và thiền định, cả ngày lẫn đêm không ngưng nghỉ, đấy là cách tu tập của những người Bồ-tát.
24/06/2013(Xem: 5416)
Nhiều năm về trước, tôi đã không đồng tình về nhiều dịch bản cũng như bình giải về bài kệ thơ “Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô...” trước khi thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh. Dường như chưa có dịch giả nào đào xới cái vỉa quặng giáo pháp ẩn giấu kín đáo dưới 28 con chữ cô đọng của bài thất ngôn tứ tuyệt ấy. Tôi chờ đợi. Và cứ chờ đợi mãi xem thử có ai giải mã nó không. Hằng năm. Hằng chục năm như thế. Vẫn tăm bóng. Nghĩ mình vốn liếng chữ Hán bỏm bẻm không có bao nhiêu,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]