Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

42. Định Tâm

04/01/201910:27(Xem: 11614)
42. Định Tâm

Định Tâm

(giọng đọc Hồng Ánh)

 

 

Không suy nghĩ cũng là một trạng thái rất quan trọng, giúp tâm quân bình và sâu sắc.

 

 

 Nhìn rõ thực tại

 

Tâm ta giống như con khỉ, hết chuyền cành này đến cành khác mà không bao giờ chịu đứng yên. Dù tâm giúp ta cảm nhận, suy tưởng, hiểu biết, thể hiện tình cảm, hay quyết định, nhưng nó không phải là một cỗ máy để cho ra số lượng sản phẩm càng nhiều càng tốt. Hạn chế của ta là thường không biết nên để tâm lên đối tượng nào và ở mức độ bao nhiêu cho vừa đủ. Mức độ vừa đủ không chỉ để giải quyết được vấn đề, mà nó phải tương ứng với nguồn năng lượng dự trữ của ta đang có. Bởi ta còn phải chi tiêu năng lượng cho những vấn đề quan trọng khác nữa. Phần lớn suy nghĩ chỉ đốt cháy năng lượng, khiến ta thêm căng thẳng rồi nhận thức lệch lạc mà không giải quyết được vấn đề gì cả. Cho nên, không suy nghĩ cũng là một trạng thái rất quan trọng, giúp tâm quân bình và sâu sắc.

 

Triết gia Descartes đã từng phát biểu:"Tôi suy nghĩ, vì thế tôi đang có mặt". Nhiều người cũng đồng thuận với quan điểm này. Họ căn cứ vào dòng suy nghĩ để thấy được sự có mặt của mình. Nghĩa là con người phải luôn suy nghĩ, nếu không suy nghĩ thì đó không còn là một thực tại sống động nữa. Cũng như những người già thường hay kiếm việc gì đó làm để thấy mình đang hiện hữu, để thấy mình không phải là kẻ bất tài vô dụng trong mắt con cháu. Thật ra, họ chỉ cần ngồi đó và mỉm cười vui vẻ với con cháu, hoặc luôn tỏa ra năng lượng bình yên và vững chãi là đủ thấy họ đang có mặt rồi. Đó mới chính là sự có mặt đích thực. Cũng vậy, khi nhìn một đóa hoa, đâu cần suy tư thì ta mới cảm nhận được sự có mặt mầu nhiệm của nó. Đôi khi, chính những dòng suy tưởng mông lung đã kéo ta ra khỏi thực tại và đánh mất thực tại. Có xác mà không có hồn thì đâu thể gọi là sự có mặt.

 

Khi nhìn đóa hoa, nếu ta không suy tưởng, không bị tương lai hay quá khứ kéo đi, chỉ thấy rõ đây là một đóa hoa đang nở trong buổi sáng hôm nay thì đó là trạng thái có mặt hoàn toàn - tức định tâm. Định tâm là tâm đang đứng yên trong thực tại, có thể nhận biết rất rõ những gì đang xảy ra trong ta và xung quanh ta. Nếu duy trì khả năng chuyên chú trên một đối tượng nào đó đã chọn lựa trong thực tại, với một thời gian đủ lâu mà không có bất cứ ý niệm nào kéo đi thì ta sẽ tạo ra được định lực - sức mạnh của sự chuyên chú. Tâm chuyên chú mạnh mẽ có khả năng phát ra năng lượng chiếu sáng lên đối tượng, nên càng nhìn ta sẽ càng nhận rõ được cấu trúc hoạt động hay bản chất thật của nó.

 

Đời sống luôn có vô số lực hấp dẫn lôi kéo tâm ta chạy lang thang suốt ngày ở bên ngoài. Đến khi lên bàn ăn, giường ngủ, ta vẫn tiếp tục để tâm mình chìm nổi trong những dự án kế hoạch, hay miên man với những hình ảnh ngọt ngào của quá khứ. Theo thời gian, ta dần đánh mất thói quen nghỉ ngơi hay thói quen để tâm chuyên chú vào một đối tượng. Trái lại, ta cho rằng càng nghĩ ra được nhiều ý tưởng mang lại lợi nhuận thì ta càng tài giỏi. Làm như thể con người sinh ra chỉ để làm việc và kiếm tiền. Thế nên, chậu kiểng trước nhà khô héo đã lâu ta cũng không thấy. Chiếc áo đã sứt nút mà ta cũng không hay. Trong nhà có bao nhiêu người đang có mặt ta cũng không rõ. Ta đứng đây để làm gì hay có hẹn với ai hôm nay ta cũng không nhớ. Thật tệ! Ta cũng hay tự trách mỗi khi phát hiện ra mình bị đãng trí. Nhưng ta cũng tự bào chữa bằng những lý do rất xứng đáng, rồi lại tiếp tục thả tâm rong ruổi, để nó tự do đi tìm nơi trú ẩn nào mà nó yêu thích.

 

Thật tiếc! Nếu ta chú tâm vào ánh nắng thì nắng sẽ ấm hơn. Ta lắng lòng nghe tiếng chim hót thì tiếng chim sẽ trong hơn. Ta hết lòng bưng tách trà uống thì trà sẽ thơm nồng hơn. Sự có mặt đích thực của thân lẫn tâm sẽ giúp cho đối tượng có giá trị hơn và chính ta cũng sẽ được thừa hưởng nhiều hơn. Một sự thật rất sâu sắc nữa là khi tâm an định, chấp nhận có mặt 100% trong giây phút hiện tại, nó sẽ kết nối được với những năng lượng an lành có sẵn trong vũ trụ. Nó làm cho những năng lượng độc hại trong ta lắng dịu và nâng dậy những phẩm chất quý giá trong chiều sâu tâm hồn. Đặc biệt, định lực giúp ta duy trì lâu bền khả năng quan sát những phiền não, từ lúc phát sinh đến khi tan biến. Nghĩa là không có định lực thì ta không thể thấu hiểu phiền não. Không thấu hiểu thì không thể tháo gỡ.


Nghệ thuật định tâm

 

Để rèn luyện cho mình thói quen định tâm, điều kiện trước tiên là ta phải bớt bận rộn. Phải tự cho mình một cơ hội lớn tìm về chính mình. Ta không thể ra lệnh cho tâm mình dừng lại, trong khi ta vẫn còn muốn nắm bắt quá nhiều thứ. Một không gian nhẹ nhàng và tĩnh lặng sẽ giúp ta dễ dàng đem tâm mình trở về, kết thành một mối với thân. Thân ở đâu thì tâm ở đó. Cũng như khi ta dùng chiếc kính lúp đón nhận những tia nắng song song, chúng sẽ hội tụ thành một điểm. Sau đó ta lấy nhúm rơm khô để phía dưới kính lúp, chùm ánh sáng hội tụ ấy sẽ đốt cháy nhúm rơm khô. Sự tập trung cao độ của tâm ý có khả năng đốt cháy phần nào phiền não, làm cho ta trở nên nhẹ nhàng, trầm tĩnh và sáng suốt hơn.

 

Ta cần cố gắng tập luyện sống chậm, nhưng cũng đừng quá chậm một cách mất tự nhiên. Mỗi khi mở vòi nước, đóng cánh cửa, mở ti-vi hay đặt tách trà xuống, ta đều quan sát kỹ những đối tượng ấy. Đặc biệt, phải ghi nhận rõ những gì xảy ra trong tâm ta suốt tiến trình xảy ra. Hãy cắt mỗi hành động ra thành từng phần nhỏ để thực nghiệm việc định tâm dễ dàng hơn. Thí dụ, khi bưng tách trà lên, ta chia làm 3 giai đoạn để chú tâm: bưng lên, đưa tới và uống. Trong khi uống, ta cũng chia làm 3 giai đoạn: vừa uống, đang uống và uống xong. Bất cứ ở  nơi đâu hay làm việc gì ta cũng nên áp dụng bài thực tập chia nhỏ từng hành động để quan sát, trừ những việc có tính chất nguy hiểm hay quá khẩn thiết.

 

Tập quan sát bước chân mình khi đi trong phòng cũng là cách để rèn khả năng định tâm. Chỉ cần thả lỏng hai tay theo chiều cơ thể và bắt đầu chú ý vào bước chân đi trong 3 giai đoạn: nhấc chân lên, đưa tới, đặt chân xuống. Ta cũng có thể chia mỗi động tác như vậy thành 3 lần nhỏ hơn nữa, để sự chú ý của ta càng thêm mạnh mẽ: phần đầu - phần giữa - phần cuối của việc nhấc chân lên, phần đầu - phần giữa - phần cuối của việc đưa chân tới, phần đầu - phần giữa - phần cuối của việc đặt chân xuống. Nên nhớ ta chỉ dùng tâm để cảm nhận mà không nên nhìn xuống bước chân. Bài tập này tuy hơi khô khan, nhưng nếu kiên trì chừng nửa giờ ta sẽ gặt hái kết quả rất bất ngờ. Sự chậm rãi sẽ giúp tâm ta không dễ dàng thay đổi đối tượng, đủ thời gian để nhìn thấu đối tượng và chính ta hơn.


Hơi thở mầu nhiệm

 

Những bậc tu thiền thành công từ nhiều thế hệ luôn xem hơi thở là sự lựa chọn hàng đầu để định tâm. Hơi thở không chỉ là một tiến trình sinh lý mà nó còn là nhịp cầu nối với các tiến trình tâm lý. Nghĩa là thông qua hơi thở, ta có thể biết được những trạng thái biến đổi của tâm mình. Điều thú vị là ta có thể cảm nhận hơi thở một cách trực tiếp mà không cần đến sự can thiệp của tư tưởng hay kinh nghiệm có sẵn. Ta đừng quên hơi thở là một tiến trình tự nhiên. Dù ta không dùng ý chí can thiệp thì hơi thở vẫn vào ra theo nhịp độ riêng của nó. Do vậy, khi chọn hơi thở làm đối tượng chú tâm, ta phải tôn trọng tính tự nhiên của nó. Ta chỉ cần nhận biết và hiểu biết nó chứ không ép buộc nó phải như thế này hay thế kia. Thực tế ta cũng hay vấp váp trong khi thở, muốn áp đặt hơi thở theo ý mình. Ta muốn nó dài hơn hoặc ngắn hơn, muốn nó êm dịu hay nhẹ nhàng hơn. Đó là một thái độ sai lầm cần phải tránh. Ranh giới giữa hơi thở tự nhiên và hơi thở có nhồi nặn rất mong manh, ta phải tinh tế lắm mới nhận ra. Nên nhớ ta chỉ đơn thuần quan sát nó, đừng đọc lầm bầm trong tâm bằng một câu nào đó để nhắc nhở hay tưởng tượng thêm điều gì khác.

 

Muốn quan sát rõ, trước tiên ta phải nhận diện rõ hơi thở của mình như thế nào. Hãy chú tâm vào sự phình xẹp của bụng: hơi thở đi vào bụng sẽ tự động phình lên, hơi thở đi ra bụng sẽ tự động xẹp xuống. Cách thở này thường chỉ phù hợp với một số ít người, nó làm cho ta dễ hồi hộp vì phải rượt đuổi theo nó. Vả lại, cách theo dõi này sẽ không làm cho ta cảm nhận hơi thở một cách trực tiếp. Hầu hết các vị hành thiền thường chú tâm vào chỗ phần chóp mũi, ngay vành trong của mũi hoặc ngay phía môi trên. Điều này còn tùy thuộc vào chiếc mũi của mỗi người. Hãy hít vào một hơi cho thật dài và sâu, rồi ghi nhận không khí bên ngoài đi vào. Cố gắng cảm nhận xem nó chạm vào phần nào của chiếc mũi rõ ràng nhất. Đó chính là điểm cần ghi nhớ để quan sát hơi thở khi ta để nó thở tự nhiên trở lại hay trong những lần tập sau. Nhờ vậy, tâm ta khỏi chạy lung tung để tìm kiếm hơi thở. Đuổi theo hơi thở sẽ rất mệt mỏi, mà cũng không bao giờ đuổi kịp vì nó cứ trôi mãi.

 

Hãy tập quan sát mối liên hệ rất tinh tế giữa hơi thở, ý muốn điều khiển hơi thở và cả thái độ muốn ngưng sự điều khiển. Ban đầu ta sẽ thấy hơi khó chịu. Dần dần ta sẽ cảm nhận được giá trị của hơi thở tự nhiên hoàn toàn khác biệt với hơi thở bị điều khiển. Qua đó, ta học hỏi được rất nhiều về thái độ hay mong muốn và áp đặt của mình. Quan sát hơi thở một cách tinh vi như thế trong thời gian ngắn, ta sẽ không còn muốn điều khiển nó nữa. Thời gian đầu, việc quan sát hơi thở sẽ làm cho ta rất dễ chán nản vì cảm thấy nó thật là vô vị. Nhưng nếu kiên trì và thở đúng cách, từ từ ta sẽ thấy nó rất đa dạng và kỳ diệu vô cùng. Sự thật không có hơi thở nào giống với hơi thở nào cả. Chúng biến hóa rất tinh xảo. Với tâm hời hợt hay thành kiến mà cho rằng nó cũng chỉ có như vậy thôi thì chắc chắn ta sẽ không thể nào thấy và thấu hiểu được nó. Cho nên, quan sát hơi thở không chỉ là quan sát đường nét mà ta còn quan sát đến cả nội dung của nó. Đó thật sự là một bản nhạc hòa tấu giữa những trạng thái hổn hển rồi lắng dịu, sâu rồi cạn, gấp gáp rồi nhẹ nhàng.

 

Trong quá trình thực tập, nhiều lúc ta có cảm tưởng không nhận ra được hơi thở của mình. Đừng quá lo lắng! Hãy chú tâm trở lại ngay điểm mà ta đã chọn, ở phần đầu chóp mũi hay sự phồng xẹp của bụng, bằng vài hơi thở mạnh tạm thời thì ta sẽ nắm bắt được ngay. Nên nhớ, ta đừng bao giờ tự trách móc bản thân mình trong khi thiền tập. Điều đó chẳng lợi ích gì cả, vì chúng chỉ là kết quả của quá trình sống trong lãng quên của chính ta đó thôi. Chỉ cần tự nhắc nhở thường xuyên là được. Thỉnh thoảng trong tâm ta sẽ hiện lên hình ảnh, âm thanh, nhận xét, lo lắng, tiếc nuối, buồn tủi, hoang mang Khi đó, ta có thể tạm thời rời hơi thở để chú tâm lên những đối tượng mới ấy. Trong trường hợp thấy mình không còn chút định lực nào, thì hãy tạm thời "ngó lơ" những biến động bất chợt xung quanh mà dành hết ưu tiên cho việc định tâm trên hơi thở. Còn nếu ta đã sẵn sàng

quan sát thì chỉ nên quan sát từng hiện tượng tâm lý một, chứ đừng gom hết chúng lại.

 

Khi những đối tượng ấy phai mờ, ta lại đem tâm trở về với hơi thở. Hơi thở bấy giờ là đối tượng chính. Nó là điểm tựa an toàn nhất của ta sau mỗi chuyến đi thăm những lĩnh vực khác, dù đó là những phản ứng xảy ra trên thân hay trên tâm. Ta đừng nóng vội trong khi thực hành, đừng quá mong muốn giải quyết những phiền não. Nhờ chút định lực tích góp từ hơi thở, mỗi chuyến quan sát những biến động mạnh như thế sẽ cho ta thêm một kinh nghiệm mới về bản chất vô thường và vô ngã của mọi sự vật và hiện tượng. Quan sát bằng tâm không mong cầu hay chống đối, thuần túy bằng thái độ tìm hiểu và khám phá, sẽ cho ta nhiều cái thấy rất tuyệt vời về chính mình và cuộc sống. Trước giờ, với cái tâm đầy xáo động và đặc sệt phiền não đã khiến ta không tài nào biết được những thứ ấy.

 

Một điều cần lưu ý là những lúc ta kinh nghiệm được hơi thở của mình một cách sâu sắc, bất chợt ta sẽ nghe trong tâm hình như có rất nhiều tiếng gào thét hay những mớ âm thanh hỗn loạn. Hoặc ta thấy mình chới với như chiếc xe đang lao đầu xuống vực thẳm mà ta không thể điều khiển. Không có gì lạ cả. Thật ra, lúc nào trong tâm ta cũng hỗn loạn, cũng đầy dẫy những cuộc xung đột hay những khoảng trống chơi vơi như thế. Chỉ vì ta chưa bao giờ nhìn kỹ vào đó thôi. Hãy cứ duy trì bài thực tập của mình, mỉm cười quan sát những âm thanh lạ lùng ấy như sự trở lại của phiền não. Rồi ta sẽ vượt qua.

 

Xung quanh ta còn biết bao người vẫn đang sống bằng sự may rủi của hoàn cảnh, vẫn không biết cái gì đang tàn phá bên trong. Nhìn họ có vẻ như không có vấn đề, nhưng thực chất là họ đang bị trói buộc và điều khiển. Còn ta, tuy phải đối diện với những phiền toái bên trong, nhưng ta đang trên con đường tháo gỡ chúng. Hãy biết chăm sóc bản thân ngay từ bây giờ, đừng đợi đến khi phiền não bùng vỡ và gây ra bao tổn thất nặng nề rồi ta mới loay hoay tìm kiếm giải pháp thì đã muộn. Đến khát nước mới chịu đào giếng thì phải chịu chết khát thôi. Điều cần lưu ý nữa là chính thái độ thực tập đúng đắn mới quyết định nên sự thành công chứ không phải do sự nhiệt tình quá mức. Tham vọng trong thiền tập cũng như trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều là áp lực dẫn tới sai lầm.

 

Như vậy, chỉ khi nào tâm yên định thì ta mới có thể quan sát lâu bền và thấu đáo mọi cấu trúc phiền não. Từ đó ta mới biết mình nên làm gì và không nên làm gì để chuyển hóa chúng. Và chỉ đến khi nào năng lực chú tâm và năng lực quan sát đã trở nên thuần thục thì hạt mầm trí tuệ mới bắt đầu hé nở. Khi ấy ta mới nhìn thấy rõ thân phận mình và cuộc đời đúng như bản chất chân thật xưa nay của nó. Ta sẽ không còn khổ đau nữa.

 

 

Bao năm còn trôi nổi

Không bến đỗ bình yên

Thuyền về neo chốn cũ

Thấy đất trời an nhiên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2022(Xem: 13308)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 11900)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 5955)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8313)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7436)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
07/12/2021(Xem: 4294)
Triết học Phật giáo và Cơ học Lượng tử luôn có sự hỗ tương cho nhau. * Sự kỳ lạ của Cơ học Lượng tử đến mức thách thức các nhà khoa học và triết học tìm hiểu một số nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế. * Một nỗ lực để tìm cách diễn giải Copenhagen, và một số người tin rằng cách lý giải này dựa vào Thế giới quan Phật giáo. * Mặc dù tôi là một Phật tử nhưng tôi phản bác quan điểm vật lý học chứng minh Thế giới quan Phật giáo.
17/11/2021(Xem: 19401)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 15731)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10105)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11170)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567