Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Thành Thật

04/01/201909:09(Xem: 11825)
24. Thành Thật

Thành Thật

(giọng đọc Dương Yến Ngọc)

 

 

Thương nhau thì phải hiểu nhau. Muốn hiểu nhau thì phải tin tưởng nhau. Mà muốn tin tưởng nhau thì phải thật lòng với nhau.

 

 

 Thành thật với nhau

 

Con người ngày càng nghiêng về sự hưởng thụ, luôn đi tìm những cảm xúc tốt từ tiện nghi vật chất và sự ngưỡng mộ của những người xung quanh, nên chẳng còn mấy ai ý thức giữ gìn lòng thành thật. Mặc dù ai cũng biết rằng thành thật là một đức tính tốt và ai cũng trông mong người khác thành thật với mình, nhưng một khi bị cuốn vào vòng tranh chấp bất tận của cuộc sống thì người ta lại thấy lòng thành thật chính là trở ngại căn bản để vươn tới thành công. Nhiều người còn dám tuyên bố rằng, sống giữa xã hội bây giờ mà cố giữ lòng thành thật thì đó là thái độ sống rất ngây thơ. Theo họ, phải khôn khéo và đầy kỹ xảo trong từng hành động thì mới là kẻ thức thời và mới hy vọng thành công.

 

Thế rồi người ta đến với nhau bằng những màn trình diễn rất ngoạn mục, từ những lời nói trau chuốt bóng bẩy đến những hành động lịch lãm dễ thương. Chỉ cần thu phục được đối phương, dù phải nhồi nặn thêm những điều hoàn toàn trái ngược với sự thật thì ta cũng chẳng chút ngại ngần. Thật khôi hài khi khán giả trung thành nhất lại chính là người thân yêu nhất của ta. Một ngày nào đó, khi ta không còn đủ sức để diễn nữa, lớp phấn son kia sẽ tự rớt xuống thì niềm tin yêu của người ấy cũng sẽ rơi rụng theo. Dù ta cố gắng biện minh bằng tất cả lòng thành khẩn thì cũng rất khó để đưa tâm thức họ trở về vị trí cũ. Trừ phi đó là người có hiểu biết và tình thương lớn thì họ mới chấp nhận và tha thứ cho ta. Dù vậy, vết thương trong họ vẫn còn đó. Sau này, ta có muốn tuyên bố điều gì quan trọng thì họ cũng vẫn đề phòng và xét lại. Họ không dễ dàng trao trọn niềm tin cho ta như xưa nữa.


Đành rằng cuộc sống đôi khi cũng cần sự khôn khéo. Nhưng chút ít thôi. Ta chỉ nên dùng nó trong những trường hợp đối phương chưa sẵn sàng tiếp nhận sự thật, chứ không phải là thói quen để tạo thêm lớp phấn son giả tạo cho mình. Mà dù phải dùng tới chiêu thức kỹ xảo để giải quyết vấn đề cho trót lọt thì ta cũng phải có trách nhiệm tìm cơ hội khác để trình bày lại sự thật. Đừng đợi người kia phát hiện ra thì ta sẽ mang tội danh lừa dối. Một trong những lý do khiến ta có niềm tin vào cuộc sống, đó là mỗi lời ta thốt ra đều được người khác lắng nghe và tin tưởng. Và không gì thoải mái cho bằng được sống chung với những người mà ta không cần phải dò xét hay đối phó bằng bất cứ chiêu thức nào. Chỉ cần nhìn nhau là đã hiểu nhau rồi. Bởi lẽ, muốn thương nhau thì phải hiểu nhau. Muốn hiểu nhau thì phải tin tưởng nhau. Mà muốn tin tưởng nhau thì phải thật lòng với nhau.

 

Trong thực tế người thành thật rất dễ bị kẻ xấu lợi dụng hay lấn lướt. Nhưng vũ trụ vốn rất công bằng. Những người thành thật cũng chính là những kẻ luôn gặp những điều may mắn nhất trong cuộc đời, và họ không bao giờ đi tới bước đường cùng vì bị kẻ khác hãm hại cả. Cho nên, ta đừng vì vài thất bại nho nhỏ khi đem lòng thành thật ra đối xử mà lại cố gắng tạo dựng cho mình thói quen đề phòng hay thiếu thành thật với mọi người. Mất đi quyền lợi thì ta vẫn còn vạn cách để khôi phục, nhưng lỡ mất đi sự hồn nhiên chân thật thì ta sẽ không biết tìm lại bằng cách nào. Không có sự hồn nhiên linh thiêng ấy, ta sẽ có cái nhìn sai lệch lên mọi đối tượng và hoàn cảnh, rồi ta lại đổ thừa cuộc đời này chỉ là những vở tuồng mộng ảo. Rõ ràng, mộng ảo là do chính tâm thức điên đảo của con người dệt lên chứ đó không phải là bản chất của cuộc đời. Vì cuộc đời vốn rất tươi đẹp.

 

 

 

Thành thật với chính mình

 

Không có một nguyên tắc chuẩn xác nào để giúp ta biết khi nào phải thành thật, hay phải thành thật tới mức độ nào. Bởi vì quan niệm về giá trị hạnh phúc của mỗi người mỗi khác nhau. Nếu ta cho rằng hạnh phúc là có được thật nhiều tiền bạc hay quyền lực, thì chắc chắn ta không thể nào đem lòng thành thật ra như một loại bảo bối để ứng phó giữa những cuộc cạnh tranh khốc liệt của cuộc sống. Chỉ có kẻ nào thấy được hạnh phúc chân thật từ chính cõi lòng bình yên, từ việc buông bỏ bớt những mong cầu hay chống đối không cần thiết thì họ mới kiên quyết bảo vệ tâm hồn mình. Họ thà chấp nhận để cho việc hư chứ nhất định không để cho tâm mình hư. Bởi tâm hư khó sửa gấp trăm ngàn lần so với việc hư. Và nếu việc thành mà tâm hư thì ta cũng chẳng thể nào hạnh phúc được.

 

Thế nhưng, lắm lúc ta lại hoang mang đứng trước sự chọn lựa nên giữ gìn lòng thành thật hay tiếp tục bước vào vai diễn để có thêm quyền lợi. Bởi vì không phải lúc nào nội lực của ta cũng đủ mạnh để chế ngự những lực hấp dẫn bên ngoài kích động vào hạt giống tham lam của mình. Đó thật sự là một cuộc tranh đấu rất cam go. Kẻ nào có

 

ý  chí mạnh mẽ hướng tới giá trị cao cả của cuộc sống thì mới hy vọng bảo vệ được lý trí sáng suốt của mình. Nhưng thực tế cho thấy không phải lúc nào sử dụng ý chí cũng thành công. Ta không thể gắng gượng áp đặt chân lý tốt đẹp vào nhận thức của mình khi nó đang rơi xuống một vị trí quá thấp. Cho dù ta đã quyết lòng muốn sống với tâm chân thật, thì năng lượng của thói quen sống che đậy và giả dối vẫn có thể hạ gục ý chí của ta như thường.

 

Vậy muốn làm chủ bản thân thì ta phải hiểu được chính mình. Muốn hiểu được chính mình thì ta không được dùng ý chí để nhồi nặn tâm mình thành ra một sản phẩm tốt đẹp để rồi tự lừa dối mình. Ta tức giận mà không chịu nhận là mình đang tức giận. Ta ganh tỵ mà cố nghĩ là mình đang phấn đấu thi đua. Ta hèn yếu mà lại cho rằng mình đang nhịn nhục. Lý do ta không thấy được chính mình đó là do sự can thiệp quá vội vàng của ý chí. Bởi ý chí là năng lực hướng tới sự tốt đẹp, nó được làm ra từ những kinh nghiệm và kiến thức tích lũy. Trong khi thực tại lại là một cái gì đó rất khác với trình độ ý chí. Mà bản thân của ý chí cũng chỉ có thể kìm hãm sự phát triển của phiền não chứ không thể nào chuyển hóa được chúng. Cho nên, ý chí không những không giúp được ta trong trường hợp này mà còn khiến ta đánh giá sai lệch về trình độ của mình. Ta sẽ trở nên chủ quan và sẽ bất ngờ trước những phản ứng vụng về đến tệ lậu của mình mà không hiểu tại sao.

 

Vì thế, nhìn vào tâm thức của mình cũng cần có thái độ thành thật. Khi ta chưa biết cách tháo gỡ đúng đắn thì hãy quan sát nó như chính nó đang là. Đừng bắt ép nó phải thế này hay thế kia. Cái nhìn thành thật ấy thường được gọi là trực giác - nhìn như mới nhìn lần đầu tiên. Đó là cái nhìn chưa đi qua sự nhồi nặn của tâm tưởng, cái nhìn không mang theo thái độ bảo vệ cái tôi của mình. Loại trừ được thái độ yêu thích hay ghét bỏ trong khi quan sát tâm mình thì chắc chắn ta sẽ thấy rõ chân tướng của nó. Ta sẽ thấy rõ nguyên nhân sâu xa nào đã thúc đẩy và tạo nên những tâm lý mình đang có. Chỉ cần im lặng và thong thả quan sát như xem cuốn phim đang từ từ mở ra thì ta sẽ thấu hiểu được từng mảnh tâm lý từ thô lậu đến tinh tế. Điều này phải cần đến quá trình luyện tập kiên trì chứ không thể nào thành công mau chóng được. Tuy nhiên, khi ta bắt đầu thành thật với chính mình, chấp nhận những gì mình đang có rồi mới tìm cách tháo gỡ thay vì phủ nhận hay đàn áp, thì đó đã là bước tiến cực kỳ quan trọng của công trình chuyển hóa tâm tính rồi.

 

Trong quá khứ, ta cũng đã từng quyết tâm cải thiện mình. Nhưng trải qua nhiều năm tháng mà ta chẳng tiến được bước nào, đôi khi lại còn bị lui sụt. Nguyên nhân lớn nhất là do ta chỉ dùng toàn ý chí, không chấp nhận trình độ mình đang có. Thậm chí, ta còn khinh ghét bản thân mình, luôn mặc cảm khi nhìn thấy những năng lượng xấu xuất hiện trong tâm. Nên nhớ, đó là kết quả của lối sống thiếu tỉnh thức của chính ta. Ta không thể ra lệnh nó phải thay đổi ngay khi ta chưa thật sự tập luyện với công phu và thời gian đủ lâu, để tạo dựng cho mình một thói quen mới bền vững. Cho nên, điều kiện quan trọng nhất để chuyển hóa những thói hư tật xấu trong chính mình là ta cần phải thấu hiểu và chấp nhận chúng như một phần của con người mình. Mà muốn thấu hiểu chúng, cách hay nhất là ta phải nhẹ nhàng và thân thiện với chúng. Thậm chí phải xem chúng là bạn.

 

Những người được nhân danh là đạo đức hay tu hành lâu năm thường dễ mắc vào cái bẫy này. Họ đem hết sức bình sinh ra để cố gắng trở thành thánh thiện, trong khi khoảng cách giữa sự thánh thiện và trình độ hiện tại của họ còn khá xa. Đôi khi, chính lòng háo hức muốn trở thành thánh thiện đã che khuất tâm thức có thật của họ. Họ ngưỡng mộ rồi tiêm nhiễm sâu sắc những kinh nghiệm quý báu của những bậc tiền bối, vô tình họ lại ngỡ đó là trình độ của mình. Họ đang không thể tha thứ vì lòng dạ còn hẹp hòi và cố chấp, mà cứ phấn đấu dán vào tâm thức mình nhãn hiệu từ bi. Nên bề ngoài tuy đã tha thứ nhưng trong lòng họ vẫn còn đầy sân hận. Thái độ "tự kỷ ám thị" này là bức tường trở ngại rất lớn cho công trình khám phá chân lý. Muốn tới được chân lý thì phải sống thật với chân lý ấy chứ không thể dùng sự thông minh để nắm bắt, tưởng tượng, hay cố uốn nắn tâm mình.

 

Dĩ nhiên, không phải lúc nào ta cũng có cơ hội để quan sát tâm mình một cách thành thật. Ta còn phải ứng phó giao tế với mọi người, còn phải tranh đấu để có thêm tiện nghi hưởng thụ, nên có lúc ta phải dùng đến ý chí để tạm thời vượt qua hoặc che đậy phiền não của mình. Được cái này ta phải đành mất cái khác, đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Song, ta vẫn còn kịp cứu chữa tâm mình nếu sau buổi trình diễn bất đắc dĩ ấy ta biết nhìn lại và tự nhắc nhở mình sẽ cố gắng để không lặp lại lần nữa. Đến khi nào ta ý thức mạnh mẽ đâu là giá trị hạnh phúc chân thật, đâu là mục đích cao cả của cuộc sống, thì chắc chắn ta sẽ dành nhiều cơ hội hơn để sống với cái tâm chân thật của mình. Ta sẽ sẵn sàng từ khước những gì làm phương hại đến những hạt giống quý báu trong tâm hồn mình. Bởi ta biết rất rõ những gì được tạo dựng trên nền tảng không chân thật sẽ không thể tồn tại lâu bền. Và nó chính là chướng ngại lớn lao khiến ta không thể đến gần với nhau được.

 

Như vậy, nghệ thuật sống cao cấp nhất không phải là trình độ kỹ xảo uốn nắn tâm mình thành một kiểu mẫu tốt đẹp nào đó mà không có nền tảng của sự chuyển hóa thật sự. Từ bây giờ, ta hãy cố gắng luyện tập thuần thục kỹ năng thấy rõ tâm mình ở mọi lúc mọi nơi. Nhớ kiên trì quan sát nó nhiều lần bằng thái độ nhẹ nhàng và từ tốn mà đừng nhồi nặn hay đàn áp. Luyện tập được như thế thì cơ hội làm chủ được bản thân mình rất cao. Khi làm chủ được bản thân, ta sẽ có nhiều cơ hội để nắm giữ hạnh phúc trong tầm tay. Ta sẽ không còn than oán cuộc đời này sao có quá nhiều điều phiền toái hay mau chóng đổi thay. Sống được với cái tâm hồn nhiên chân thật là ta đã chính thức hòa điệu với sự vận hành của vũ trụ. Đó là lối sống của bậc trí thức, là ước mơ của biết bao người đã không tìm thấy giá trị hạnh phúc chân thật từ những tấn tuồng đầy kịch tính của cuộc đời.

 

Dù chưa tìm thấy được con người hồn nhiên chân thật, nhưng ta tin chắc rằng nó vẫn còn nguyên vẹn đó chứ không hề tan biến đi đâu. Vì có nhiều khi tâm hồn ta thật sự vắng lặng, không còn bóng dáng của những tham cầu và chống đối, thì ta bỗng nhìn thấy nó hiện về tựa chừng chưa bao giờ xa cách - "Có nhiều khi từ vườn khuya bước về, bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa" (Phôi pha - Trịnh Công Sơn).

 

 

Xin cảm ơn đất trời

Cho tôi được về tôi

Bao năm làm lữ khách

Thấm thía nỗi đau đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2019(Xem: 5597)
Kinh Duy Ma Cật, tôi đã có duyên được học với Hòa thượng Thích Đôn Hậu, tại Phật Học Viện Báo Quốc - Huế, sau năm 1975 Tôi rất thích tư tưởng “Tịnh Phật Quốc Độ” của kinh này, khi nghe đức Phật gọi Bồ tát Bảo-tích mà dạy: “Trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật chúng sinh không dua nịnh sẽ sinh về cõi ấy. Thâm tâm là Tịnh Độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào có đầy đủ công đức sẽ tái sinh về cõi ấy. Bồ đề tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, hết thảy chúng sinh tầm cầu Đại thừa sẽ sinh vào cõi ấy.
04/01/2019(Xem: 81561)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
10/12/2018(Xem: 9792)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
06/12/2018(Xem: 4006)
Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu không có từ bi thì không có đạo Phật. Đạo Phật là con đường diệt khổ, vậy thì từ là đem vui, bi là cứu khổ, còn gì đúng hơn nữa khi nói đạo Phật là đạo của từ bi ? Nhưng người ta cũng có thể tự hỏi : có thể nào thâu gồm lại đạo Phật trong hai chữ từ bi ? Liệu từ bi có đủ để định nghĩa đạo Phật, để phân biệt đạo Phật với các tôn giáo và triết thuyết khác ? Nói một cách khác, có thể nào xem từ bi như là một đặc điểm của đạo Phật ? Nhìn chung quanh, chúng ta thấy đạo giáo nào cũng chủ trương tình thương bao la, rộng lớn, như lòng bác ái của đức Ky Tô, thuyết kiêm ái của Mặc tử. Nhưng chỉ có đạo Phật mới nổi bật lên bằng sự đề cao trí tuệ. Có thể nói rằng trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, không có một tôn giáo nào đặt trọng tâm vào vai trò của trí tuệ hơn là đạo Phật. Bởi vì Buddha (Phật) phát xuất từ chữ Phạn bud, có nghĩa là hiểu biết. Đức Phật là người đã hiểu biết trọn vẹn, đã tỉnh thức, đã giác ngộ, l
02/12/2018(Xem: 8514)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
26/11/2018(Xem: 11074)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
04/09/2018(Xem: 7220)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
13/08/2018(Xem: 6406)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
03/06/2018(Xem: 21536)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 10441)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567