Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Không Chỉ Tương Hợp Mà còn Hoan Nghênh Vũ Trụ Học Hiện Đại

19/11/201722:05(Xem: 5025)
Phật Giáo Không Chỉ Tương Hợp Mà còn Hoan Nghênh Vũ Trụ Học Hiện Đại

Duc The Ton 5

PHẬT  GIÁO  KHÔNG  CHỈ  TƯƠNG HỢP

MÀ CÒN HOAN NGHÊNHVŨ TRỤ HỌC HIỆN ĐẠI

( Buddhism Is Not Just Compatible with Modern Cosmology,

It Welcomes It )

Nguyên tác : Chris Impey

Việt dịch : Trần Như Mai

 

 

Đôi nét về tác giả : Chris Impey là Phó Khoa Trưởng của Đại Học Khoa Học, và là một Giáo Sư Xuất Chúng của Khoa Thiên Văn Học thuộc  Đại học Arizona (Hoa Kỳ). Công trình nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc phát triển và cung cấp năng lượng của những lỗ đen khổng lồ trong các thiên hà.Ông đã viết hai cuốn sách giáo khoa, một tiểu thuyết, tám cuốn sách khoa học phổ thông, và hơn 250 bài nghiên cứu và bài báo. Khiêm Tốn Trước Hư Không (Humble Before the Void), một cuốn sách dựa trên những khóa hội thảo được mô tả trong bài báo này, do Templeton Press xuất bản năm 2014 .

 

 

****************

Ba mươi hai vị tăng và ni ngẩng lên nhìn khi tôi bước vào lớp, một lớp học trống chỉ có cái bảng đen và học viên của tôi ngồi chéo chân trên các tấm gối mỏng đặt trên sàn gỗ. Bầu không khí tỏa nhẹ hơi nóng của gió mùa. Chúng tôiđang ở trong một tu viện gần chân đồi của ngọn Hy-mã-lạp-sơn. Các vị tăng ni này là những di dân từ Tây Tạng, nhiều người là trẻ mồ côi, và họ đến đây từ khắp nước Ấn Độ để học về vũ trụ học.

 

Mười sáu năm trước, Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu chương trình huấn luyện tăng ni cho đời sống của thế kỷ 21. Ngài muốn tăng cường huấn luyện các tăng ni và ngăn cản không để cho văn hóa Tây Tạng trở thành một mẫu chưng bày trong viện bảo tàng. Mỗi mùa Hè, các nhà giáo dục Tây phương đến Ấn Độ để dạy tăng ni về môn Toán, Vật lý, Sinh học, Khoa học Thần kinh, và Vũ trụ học. Tôi đã giảng dạy trong các khóa hội thảo về ‘Khoa Học Cho Các Tu Sĩ ’  từ năm 2008.  Lúc đó là cao điểm của năm học khi tôi bất chấp sự hổn độn của Ấn độ để đến với thánh địa yên tĩnh này ở gần chóp đỉnh của thế giới.

 

Các tăng ni có một quan điểm lý tưởng hóa về cách thức hoạt động của khoa học. Họ nghĩ rằng khoa học có thể đo lường số lượng với sự chính xác tuyệt đối, chỉ cần có dụng cụ tốt và sự tận tâm. Đối với họ, khoa học có vẻ không thể thay thế được và đầy uy quyền, và vì thế, xa xôi và tách biệt. Nhưng tôi nhận ra một mặt khác của quan điểm ấy – đó là khái niệm thô thiển của tôi về Phật giáo và đời sống tu tập. Tôi tưởng tượng rằng các vị tu sĩ ấy sống một cuộc đời đơn độc và chỉ biết hành thiền, rằng một tu sĩ Phật giáo nghĩa là người rút lui khỏi cuộc đời. Tôi nghĩ rằng khoa học có thể là một sự xâm nhập không được hoan nghênh vào thế giới khắc khổ của họ.

 

Chẳng bao lâu tôi biết rằng Phật giáo được mô tả tốt hơn như một triết lý thay vì là một tôn giáo. Phật giáo không có giáo lý thần học và tránh nói đến nguyên nhân đầu tiên của thế giới. Đức Phật không phải là Thượng đế, và ngài cũng không tuyên bố như vậy. Phật giáo ngang hàng với khoa học trong việc chấp nhân  duyên khởi tự nhiên, và cố gắng xác nhận bất cứ quan điểm nào của thế giới về vấn đề này bằng những quan sát thực nghiệm. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khẳng định thật ngắn gọn rằng: “Nếu khoa học chứng minh niềm tin nào của Phật giáo là sai thì Phật giáo sẽ phải thay đổi” . Thật khó tưởng tượng những lời nói tương tự như thế xuất phát từ những nhà lãnh đạo tôn giáo khác trên thế giới. Môi trường thực nghiệm của Phật giáo cung cấp nền tảng cho việc đối thoại phong phú với khoa học.

 

CÁC TU SĨ TIN CHẮC RẰNG PHẬT GIÁO CÓ THỂ GIÚP KHOA HỌC TRỞ THÀNH MỘT SỨC MẠNH PHỤC VỤ CHO NHỮNG ĐIỀU TỐT ĐẸP TRÊN THẾ GIỚI

 

Tôi đã gặp những tu sĩ nghiên cứu khoa học một phần là vì thầy của họ muốn như vậy. Tuy nhiên, sự dấn thân của họ sâu xa hơn là việc đơn thuần thực hiện ước mong của vị thầy của họ. Họ được huấn luyện như những học giả. Họ rất tò mò. Chương trình đã bén rễ từ lâu nên không phải chỉ lệ thuộc vào những lần thỉnh giảng của các nhà giáo dục Tây phương. Các học viên trong nhóm học đầu tiên với tôi nay đang điều khiển các trung tâm nghiên cứu khoa học và đang giảng dạy tại các tu viện của họ. Họ nghĩ rằng khoa học có thể giúp họ trở thành những tu sĩ Phật giáo tốt hơn, bởi vì khoa học có thể giải phóng họ thoát khỏi những giáo điều và truyền thống và giúp họ thấy thế giới đúng như thật (trong lúc không nhầm lẫn cho rằng kiến thức đó là thực tại tối hậu.)

 

Để đáp lại, họ tin chắc rằng Phật giáo có thể giúp cho khoa học trở thành một sức mạnh phục vụ cho những điều tốt đẹp trên thế giới. Họ bác bỏ khuynh hướng của các nhà khoa học tự nhiên muốn trở thành những người theo thuyết phân tích hoàn nguyên (reductionists), vạch ra sự ngu muội của chúng ta về bản chất cốt lõi của đời sống và tâm thức. Họ cũng nhận xét rằng khoa học cứ tiến lên không khoan nhượng trong lúc hiếm khi dừng lại để xem xét những hậu quả xấu hoặc không cố ý. Các tu sĩ muốn đem lại cho khoa học một sự hỗ trợ về mặt đạo đức mà không cần phải gắn liền với Phật giáo, nhưng là một quan điểm đặt  trên nền tảng nhân bản và lòng từ bi.

 

Phần lớn các tăng ni theo học ở đây có  kỹ năng toán học không hơn cấp lớp 8. Họ không biết cách sử dụng máy tính. Tuy nhiên, họ đã trải qua một thập niên hoặc hơn để học về khoa hùng biện và triết học. Họ bị thu hút trước những vấn đề như tính vô hạn của không gian, hoặc bản chất của thời gian vào lúc có cuộc đại bùng nỗ Big Bang (để hình thành vũ trụ), hoặc vai trò của nhà quan sát trong thực tại khách quan. Họ hiếm khi bị kẹt trong những chuyên rắc rối vô ích. Họ tranh luận thật hăng say và không sợ hãi. Quan trọng nhất là họ thật tâm thích thú việc học hỏi. Lớp học thường giải tán trong những tràng cười vui vẻ. Sau tám giờ học trong lớp, họ trở nên nhạy bén một cách phi thường. Và họ thức dậy để cầu nguyện và tụng kinh vào 5 giờ sáng mỗi ngày trong lúc tôi còn đang ngủ.

 

Thật là trẻ trung năng động khi bước ra khỏi quả bong bóng hàn lâm và tiếp cận đề tài của tôi với cái nhìn nhìn tươi mới. Tôi cũng thích thú tận hưởng cơ hội này để thử những phương pháp giảng dạy mới với những học viên ham học như thế này. Tôi đã đem những sinh hoạt từ Ấn độ về  sử dụng trong lớp học của tôi ở Arizona, ví dụ như cách phỏng đoán bằng hạt cát và phép quán tưởng được hướng dẫn như một phương cách để khám phá vũ trụ.

 

Một sinh hoạt thực hành liên hệ đến việc phỏng đoán số hạt cát trong một đóa hoa mạn-đà-la bằng cát mà các tu sĩ đã thực hiện tuần trước. Câu trả lời là : một tỷ. Chúng tôi quán tưởng rằng lớp học bị ngập đến đầu gối bởi một ngàn đóa hoa mạn-đà-la bằng cát. Đó là con số các tinh tú trong giải Ngân hà và con số những thiên hà trong vũ trụ có thể quan sát được. Nếu những hạt cát tượng trưng cho tất cả các tinh tú trong vũ trụ, thì số lượng hạt cát sẽ lớn hơn núi Everest (Chomolungma trong tiếng Tây Tạng).

 

Chúng tôi quay sang thảo luận về thời gian. Đã 13.8 tỷ năm kể từ khi có cuộc đại bùng nỗ Big Bangquả là điều không thể nghĩ bàn. Một đời người so với số tuổi của vũ trụ chỉ như một cái nháy mắt . Một vị sư cao niên da mặt không có một nếp nhăn,vui vẻ nói với tôi rằng tuổi của vũ trụ rất giống với cách Phật giáo đo lường thời gian, gọi là kiếp (kalpa). Vị ấy nhắc lại hình ảnh một ngọn núi được kết hợp bởi nhiều tinh thể như các vì sao trong vũ trụ. Rồi một con bồ câu bay ngang qua và đập cánh vào ngọn núi ấy mỗi ngày một lần, cho đến khi ngọn núi ấy bị bào mòn dần và không còn tồn tại nữa, thì một kiếp cũng dài như thế.

Đối với Phật tử, không có thực tại cố định và thường hằng. Quan điểm khoa học cũng tương tự như thế.

 

Để hiểu được mức độ sâu thẳm của thời gian, chúng tôi dùng một sinh hoạt gồm có những hình ảnh không ghi chú thích về các điểm mốc trong lịch sử vũ trụ, quả đất, sinh học và nhân loại – hành tinh xưa nhất, một chuổi thiên hà, Hỏa tinh, Đại Vực Sâu (Grand Canyon), các Kim Tự Tháp, phi thuyền không gian. Các tăng ni trải những hình ảnh đó trên sàn nhà theo thứ tự thời gian và mỗi nhóm bình phẩm về trật tự mà nhóm kia sắp xếp. Tâm trạng mọi người là rất sôi nổi. Có những tràng cười lớn và hai nhóm cạnh tranh nhau mà không có sự chống đối. Tôi rút lui vào một góc bên lề, vui vẻ làm người thừa thải trong sinh hoạt học tập ồn ào này. Đối với một nhà giáo dục, đây là một mỏ kim loại quý hiếm. Điều tốt nhất trong các sinh hoạt này là chúng tôi đã có sự gặp gỡ tương đồng trong các quan điểm về thế giới. Các học viên đã xem việc học tập là sáng tạo và sinh động, và tôi biết quý trọng tiến trình cũng như kết quả các sinh hoạt học tập ấy.

 

Lệ thuộc lẫn nhau (/tương liên) và vô thường. Những từ này mang ý nghĩa khác nhau đối với một nhà khoa học và một Phật tử, nhưng chúng cung cấp một điểm chung để thảo luận về những tương tác và chuyển hóa bao trùm cả vũ trụ vật lý. Đối với một Phật tử, vô thường nghĩa là không có một thực tại cố định và thường hằng; mọi vật đều phải chịu chuyển hóa và thay đổi. Đức Phật dạy rằng đời sống là một loạt những khoảnh khắc khác nhau, kết nối lại để cho ta cảm giác trôi chảy liên tục, giống như một dòng sông. Quan điểm khoa học cũng tương tự như thế, từ một con người như một khuôn mẫu sinh học bền bỉ bởi các tế bào liên tục sống và chết, đến những tiến trình trong vũ trụ liên tục trao đổi và chuyển hóa chất và năng lượng. Lệ thuộc lẫn nhau trong Phật giáo nghĩa là không một hiện tượng nào sở hữu tự tánh độc lập bất biến, mọi hiện tượng đều phải lệ thuộc vào một cái gì khác để tồn tại. Mọi tồn tại đều có liên hệ với nhau. Đối với khoa học, tính chất lệ thuộc lẫn nhau là rất rõ ràng trong sinh học, nhưng cũng áp dụng trong khoa học vật lý, nơi mà các cấu trúc trong hành trình đi từ hạt cơ bản đến các thiên hà đều có liên hệ đến sự lệ thuộc lẫn nhau của những hạt cơ bản qua các lực đẩy.

 

Những hạt cơ bản của tôi và của các tăng ni đã trải qua  một cuộc hành trình đáng kinh ngạc xuyên vũ trụ, chạy thoát khỏi sức nóng gay gắt của vụ đại bùng nỗ Big Bang, bị những đám mây bụi đẩy qua đẩy lại và trôi nổi bồng bềnh trong khoảng  trống không giữa các hành tinh, chạy theo vòng quay của giải Ngân Hà, băng qua các tâm điểm giao thoa và bầu khí quyển của vô số hành tinh, rồi xoáy mạnh qua địa cầu của chúng ta , trước khi qui tụ tại trong cơ thể tôi và những cơ thể trước mặt tôi. Từ một điểm xuất phát, những hạt cơ bản của chúng tôi đã tỏa ra khắp nơi, rồi trải qua vô số cuộc hành trình qua không gian và thời gian trước khi qui tụ về đây để suy tưởng về khoảnh khắc này. Chúng tôi trở thành đồng nhất với vũ trụ.

____________________

 

Sources:Cosmos on Nautilus - Multiverse, Jan 2017

http://cosmos.nautil.us/short/93/buddhism-is-not-just-compatible-with-modern-technology-it-welcome-it

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2017(Xem: 15700)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
30/11/2017(Xem: 6202)
Định nghĩa. Vô Trước. Vô, nghĩa là không. Trước, nghĩa là dính mắc, bị dính vào, mắc vào, kẹt vào. Cụm từ Vô Trước, nói cho đủ: Không bị dính mắc, kẹt vào. Danh từ kép này, được chỉ cho những hành giả trong đạo phật trên đường tu tập, để tìm cầu cho mình cơn đường giải thoát là không để cái Tâm bị dính vào, mắc vào, kẹt vào sắc trần, nói như pháp môn thiền định “đối cảnh vô tâm. Như vậy, tâm con người thường bị dính trần hay sao, mà pháp thiền phải cảnh giác ? Đúng như vậy, tâm của kẻ phàm phu ưa dính, mắc vào, kẹt vào sắc trần vật chất, ưa trách móc, ưa chấp nê, ưa nghe lời khen ngợi
26/11/2017(Xem: 8843)
Tứ Diệu Đế, 3 Chuyển 12 Hành ------------------------------------------------- Thich-Nu-Hang-Nhu Thích Nữ Hằng Như NGUỒN GỐC Dựa theo "Tiến Trình Tu Chứng và Thành Đạo của Đức Phật", chúng ta biết rằng sau khi Đức Phật từ bỏ pháp tu từ hai vị đạo sĩ Alàra Kàlama và Uddaka Ramàputta đã dạy Ngài bốn tầng Định Yoga là: "Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ", đồng thời từ bỏ luôn pháp tu khổ hạnh kéo dài 6 năm, là một pháp tu đã khiến Ngài suýt mất mạng mà không đạt được thượng trí và Niết Bàn. Sau đó Đức Phật tự chọn pháp Thở để tu tập.
21/11/2017(Xem: 9397)
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau: “Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
01/11/2017(Xem: 8843)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21282)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
21/06/2017(Xem: 7252)
* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sư không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.
25/04/2017(Xem: 8658)
Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học
24/04/2017(Xem: 8074)
Lời giới thiệu: Chúng tôi viết quyển sách này với mong muốn được trình bày theo cái hiểu và suy nghĩ của riêng mình. Kính mong rằng các bậc cao Tăng thạc đức niềm tình tha thứ nếu có chỗ nào sai xót. Chúng con hàng hậu học, vừa học, vừa tu vừa hướng dẫn lấy Kinh luật luận làm nền tảng. Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Chuyển nghiệp là quá trình nỗ lực làm cho phàm tính trong con người trở thành Thánh tính của bậc hiền.
18/04/2017(Xem: 7314)
Hai năm về trước, ngẫu nhiên đọc được bài diễn văn ‘Giá Trị của Khoa Học’ (The Value of Science) bởi Dr. Richard Feynman, Mùa Thu, 1955, (in Volume XIX, ENGINEERING AND SCIENCE, December 1955) rất nổi danh ở trên internet nhưng lúc đó tôi chưa đủ trình độ để hiểu nổi cái trí tuệ thậm thâm viên diệu của ông ta dù lúc đó tôi cảm thấy rất hấp dẫn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567