Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sức mạnh của tâm

15/08/201407:31(Xem: 13199)
Sức mạnh của tâm
tam










Tánh biết tham lam vật chất ,ích kỷ,vị tha,nhân quả,,ăn năn ,sám hối, thương yêu, ghét bỏ, sợ hãi, buồn tênh, v.v… của muôn loài hữu tình chúng sinh nói chung, con người nói riêng được hiển lộ ra ngoài thân ở lời nói và hành động trong đời sống hằng ngày.Tánh biết này,được các nhà ngôn ngữ cổ đại Trung Quốc gọi là Tâm.Từ đó cho đến nay người Trung Quốc và Việt Nam đều nói là tâm, một khi đề cập đến sự biết của các loài hữu tình chúng sinh,và con người.

Các nhà Phật học gọi tánh biết của muôn loài hữu tình chúng sinh là Phật tánh. Thế gian gọi là Tâm.Chất liệu nuôi dưỡng Tâm,Phật tánh được tồn tại,đó là trái tim và hơi thở.Phật tánh,là tánh vốn trong sáng nằm sâu trong bộ não chúng sinh. Phật tánh được kinh văn gọi Như Lai tạng.Cả hai,tánh không khác nhau, đều là đà sống của muôn loài hữu tình chúng sinh. Dù tánh biết sống theo bản năng(giác hồn,sinh hồn) của loài súc sinh, vẫn do lực Phật tánh mà có.( Vạn pháp duy tâm.Nhất thiết duy Phật tánh) Do vậy, có Phật tánh là có vạn hữu chúng sinh, không có Phật tánh, không có chúng sinh vạn hữu. Các nhà luận sư Phật học gọi Phật tánh, Như Lai tạng là linh tri, linh giác, tuệ giác bình đẳng, tâm trí sáng suốt. Chỉ khác nhau ở thô, tế, liệt, thắng, bản năng, nhận thức, biến kế sở chấp,bởi bản thân lớn,nhỏ,môi trường thác sinh (y báo, chánh báo),mà thôi, đúng như lời Phật nói: “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” và sẽ thành Phật ở tương lai, nếu Phật tánh của mỗi chúng sinh trở về nguyên thể thanh tịnh trong sáng.

Như vậy trước khi tâm con người nói riêng, được có tuệ giác thành Phật, tâm con người bị đen tối, Phật tánh lu mờ? Đích thực như kinh Lăng Già, Duy Thức xác định rõ rằng: Phật tánh Như Lai tạng trong bản thân chúng sinh vốn trong sáng như kim cương, nhưng bị đen tối, u ám, si mê, đần độn là do các thứ ô trược, phiền não, vô minh của tự thân chúng sinh bao vây chế ngự lấy Phật tánh.Điều này được ví như ĐườngTăng bị Yêu Tinh khống chế,bắt vào hang đọng.Hết Yêu Tinh.Đường Tăng vẫn là Đường Tăng.Ví dụ khác;viên ngọc kim cương bị rớt vào nước dơ.Lấy ra,rửa sạch,vẫn là kim cương.

Phật tánh, Như Lai tạng bị các thứ vô minh, triền phược, phiền não bao vây, chế ngự như vậy, được Lăng Già thay vào đó bằng cụm từ Thức A Lại Da, để diễn nói rõ; mặc dù Phật tánh bị các thứ ô nhiễm bao vây, nhận chìm như vậy, nhưng tâm chúng sinh vẫn có biết mọi thứ trong đời sống. Biết từ si mê không chánh trí, cho đến biết có chánh trí thánh thiện. Cho nên sức mạnh của tâm gồm có: tà tâm ( Thức a lại da) và chơn tâm (Phật tánh). Tâm biết si mê không chánh trí thường được hiển lộ ra lời nói và hành động ác.(Thức a lại da). Tâm biết có chánh trí được hiển lộ ra lời nói và hành động thiện, vô ngã không chấp trước (Phật tánh).

.Do vậy khi nào nghe, thấy được lời nói và hành động ác ở người nào đó, là biết ngay thức A Lại Da của người ấy chưa được tiếp nhận cam lồ pháp vũ của Phật, tức là Phật tánh của người ấy đang bị vô minh, phiền não nhận chìm xuống hố thẩm của 5 trược.Đây là thời điểm của của người chưa biết tu tập Phật pháp. Và khi nào nghe, thấy được lời nói và hành động thiện của người nào đó, là biết ngay thức A Lại Da của người ấy đang được lột xác vô minh, tiến dần đến Bạch tịnh thức. tức là Phật tánh của người ấy đang được hiển lộ như hoa sen kia sắp lên khỏi mặt nước. Đây là thời điểm của người biết tu tập Phật pháp.Hai lãnh vực có tu,không tu nói trên,là quy luật hiển nhiên của Hoa nghiêm: Thử hữu cố bỉ hữu.Thử vô cố bỉ vô (Cái này có,cái kia chẳng không.Cái này không,cái kia chẳng có),một cách bình đẳng.
chu-Tam

Người biết tu tập Phật pháp không hạn định là giới nào, mà hễ có đem tâm nhận thức rằng, còn vô minh chấp ngã, phiền não, ác trược trong tâm, là sức mạnh của ác tâm, nó dắt dẫn thối hóa bước đường tu tập.Liền quyết tâm tiêu trừ, dứt sạch cho hết, thì mới có thể yên tĩnh thân tâm trên bước đường tu tập,là sức mạnh thiện tâm.

Để chứng minh cho thấy người người bình dân,nghèo khổ mà đã có nhận thức về sức mạnh của ác tâm và sức mạnh của thiện tâm.Ác tâm, khó có thể yên lòng trên đường tu tập.Chỉ có thiện tâm;một tâm thanh tịnh,mới có thể hòa nhập vào tâm Phật (Phật,chúng sanh tâm thường rỗng lặng…) trên bước đường tu tập để đạt được con đường giải thoát, đó là một bà già nghèo khổ đã nhận thức như vậy,được tác phẩm “Hạt Đậu Biết Nhảy” nói đến.Người viết phỏng theo,có thêm nhiều đoạn văn,để diễn rộng nội dung,cho các đọc giả được hiểu rõ về sức mạnh của tâm qua câu chuyện sau đây:

Giữa biên giới Tây Tạng và Tây Khương có một bà lão nghèo, sống côi cút một mình trong mái nhà tranh. Cuộc sống vật chất của bà bằng nghề trồng trọt ngũ cốc trên vài sào đất ở thung lũng. Vốn có thiện căn Bồ đề, bà nhận thức rằng, con người và kiếp sống thực tại của bà đã và đang bị chìm đắm trong vũng sâu đầy khổ não, gian truân ở bản thân như vậy, là do quả báo nghiệp ác của đời trước đang đeo đẳng trong tâm,nó giày vò thân già bà ở kiếp sống hôm nay, là điều không thể tránh khỏi. Muốn ra khỏi sinh tử khổ đau ấy, là phải tu tập Phật pháp, trong đó có trì tụng kinh,chú và sám hối ăn năn , đừng tạo nghiệp ác nữa, thì các ác trược phiền não, vô minh, chấp ngã sẽ lần lượt bị tiêu trừ hết, được thay vào đó tâm Phật,là con đường giải thoát sinh tử. Sau nhận thức đó, bà quyết chí đi tìm thiện hữu tri thức Phật giáo, để hỏi thăm có cách hành trì Phật pháp nào,hợp với hoàn cảnh bà,để tiêu trừ hết nghiệp chướng phiền não trong tâm,để được có tâm an lạc thanh tịnh trường cửu,là hành trang giải thoát.Do có sức mạnh của tâm mong muốn cầu đạo giải thoát.

Thế là một hôm nọ, bà được một khách hành hương* đã chỉ và hướng dẫn cho bà cách trì tụng câu thần chú ngắn 6 chữ “Om Ma Ni Pát Mi Hôm” của Bồ Tát Quán Thế Âm rất cặn kẽ. Sau đó bà vui mừng và lẩm bẩm câu thần chú từ trên đường về nhà. Nhưng với tuổi già và không biết chữ, cho nên bà nhớ lộn âm “Hôm” thành ra âm “Khuya”. Từ đó bà cứ nhớ trong lòng “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”.

Để giữ cho tâm yên tịnh đừng tạp niệm, bà để một cái bát có đậu nành, một cái bát không trước mặt cho việc trì tụng vào buổi tối. Sau mỗi lần đọc xong câu thần chú như vậy, bà đưa tay lấy một hạt đậu từ bát có đậu bỏ qua bát không. Cứ như thế, từ có qua không, rồi ngược lại suốt 30 năm không ngừng nghỉ bữa nào. Ngoài ra, bà còn trì tụng trong lúc ngồi nghỉ cuốc đất, trồng trọt trên nương dâu nữa.
tam-3

Với tâm thanh tịnh không hề bị tạp niệm, một lòng thành kính, lễ bái lên chư Phật và cương quyết trì tụng thần chú,một cách tinh tấn,không lơi bữa nào. Chính là sức mạnh của tâm,năng lực mầu nhiệm, cho nên vào thời gian gần 30 năm, bà lão không cần đưa tay nhặt hột đậu. Có lẽ do vì chí thành trì tụng mà quên nhặt hạt đậu. Ấy thế vậy mà những hột đậu từ bát có, tự động nhảy qua bát không, sau mỗi lần đọc xong câu thần chú “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”.Nếu không nói rằng; tâm của bà đang có định lực lớn,do không còn khởi tâm lấy hạt đậu ở bát có,bỏ qua bát không nữa.

Vào một chiều chạng vạng (twilight) nọ, có một vị cao Tăng Tây Tạng đi ngang qua vùng đó trên đồi, bỗng nhiên thấy có một vừng ánh sáng rực rỡ thật kỳ diệu,bao trùm khắp không gian trên,dưới,chung quanh ngôi nhà tranh lẻ loi dưới đồi. Làm cho vị cao Tăng Tây Tạng lấy làm kinh ngạc, nghĩ thầm trong lòng rằng; hào quang chung quanh mái nhà tranh kia đang chiếu rọi cả một góc trời như vậy, phải là hào quang của những bậc đạo sư chứng đắc quả vị Phật, Bồ Tát, từ trong ngôi nhà tranh ấy phát ra. Sau đó vị tăng Tây Tạng xuống đồi,vào ngôi nhà tranh.

Khi vào, bà lão không hay biết gì, vẫn ngồi trì tụng thần chú. Vị tăng đứng lắng nghe âm thanh “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”. Thấy dấu hiệu có người vào, bà lão quay lui, đứng lên chấp tay bái xá vị Tăng, nhưng âm thanh “Om Ma Ni Pát Mi Khuya” vẫn phát ra từ đôi môi của bà một cách tự nhiên.

Sau giây phút thăm hỏi, vị Ttăng nhã ý với bà lão:

- Bà cụ ơi, bà đã đọc sai chữ chót của câu thần chú rồi.

- Thưa ngài, sai như thế nào, xin ngài chỉ lại cho con được biết ạ !

- Chữ “HÔM” chứ không phải chữ “KHUYA”. Bà phải đọc “Om Ma Ni Pát Mi Hôm” mới là đúng, đừng đọc “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”nữa.

Sau lời sửa sai của vị Tăng, bà lão nhận ra biết mình đã đọc sai suốt 30 năm qua. Từ đó bà rất là buồn cho sự nhầm lẫn trọng đại ấy, suốt 30 năm chỉ là giả tràng xây cát biển đông. Tuy vậy bà vẫn nói lời cảm ơn sự sửa sai của vị Tăng.

Sau khi vị Tăng chào tạm biệt bà lão ra về, bà lão tiếp tục trì tụng thần chú. Lần này bà tụng “Om Ma Ni Pát Mi Hôm” đúng như vị Tăng đã chỉ nhưng, trong lòng vẫn buồn rầu được xen kẽ lúc trì tụng, vì thấy rằng sự trì tụng 30 năm qua thật là uổng công, do đó bà vừa tụng vừa rơi nước mắt.

Vì thế cho nên, lần tụng câu thần chú sau này, những hột đậu không còn tự động nhảy nữa, do không còn sức mạnh chơn tâm,bị thay vào đó sức mạnh tà tâm (bị rối loạn, mất thanh tịnh), Vì vậy ánh sáng hào quang kia cũng bị mất theo luôn.Đúng với định lý Hoa Nghiêm “ Thử vô,cố bỉ vô”(cái này không,cái kia cũng chẳng có).

Để quan sát lại ngôi nhà tranh của bà lão, còn tiếp tục có ánh sáng ấy hay, không. Vị Tăng trên đường trở về bản xứ,có chủ tâm đi vào buổi tối, để xem ngôi nhà tranh của bà lão còn ánh hào quang nữa hay không.Khi đến đúng vị trí nhà tranh của bà lão.Ngài từ trên đồi nhìn xuống chỉ thấy màn đêm buông xuống tối đen, thật là đìu hiu và ủ dột vô cùng! Vị tăng liền giựt mình, nghĩ rằng mình đã hại bà lão ấy rồi, là làm cho bà mất sức mạnh thanh tịnh tâm, không còn tập trung tâm ý, bị rối loạn tâm, nên chi không còn hào quang chư Phật chiếu rọi,hộ niệm cho bà nữa. Vị Tăng liền vội vã xuống đồi,vào nhà bà lão và nói rằng:

- Bà cụ ơi, lời ta nói với bà chiều xưa ấy,chỉ là lời vui đùa thôi! Chứ câu thần chú mà bà đã tụng lâu nay mới đích thực là đúng đấy.

- Con cám ơn Hòa Thượng. Vậy mà con tưởng rằng công lao trì tụng thần chú 30 năm của con đã bị trôi theo mây,khói rồi!

Vị Tăng đi rồi, bà lão vào tiếp tục tụng thần chú “Om Ma Ni Pát Mi Khuya” như thuở nào.

Để xem lại sự tụng niệm của bà lão lần này ở câu “Om Ma Ni Pát Mi Khuya” có còn được hiệu lực như cũ hay,không.Mấy hôm sau, vị Tăng trở lại vào chiều tối,nhân cơ hội đến ngôi chùa gần đó.Ngài đứng trên đồi,nhìn xuống, thấy ngôi nhà tranh của bà lão được tiếp tục tỏa ra ánh sáng hào quang rực rỡ như trước, do tâm tư bà lão được có lại chơn tâm thanh tịnh như ngày nào,là sức mạnh làm cho những hột đậu tự động nhảy trở lại từ bát có qua bát không.Cứ như thế có qua không,khi đầy bát,nhảy vào bát không…


tam-2

Qua câu chuyện trên, cho ta thấy thức A Lại Da(Tâm) ở mỗi con người, bất luận giai cấp nào, hễ có tu tập Phật pháp đúng cách, đúng pháp môn, dù cho có tụng sai âm mà tâm vẫn thanh tịnh, không bị rối loạn,thì Thức a lại da được chuyển thành Bạch Tịnh Thức (Phật tánh được trở về nguyên thể). Từ đây cho ta thấy rằng tâm trên hết,rất quan trọng đối với con người,nó là chủ tể mọi việc hằng ngày của vạn loại hữu tình chúng sanh nói chung,con người nói riêng.Chủ, có nghĩa là tự tại, an nhiên, không bị ngăn cấm, cản trở giống như ông vua,chủ của một nước,cai trị toàn dân, nên chi muốn đi đâu, ở đâu cũng được, do có uy quyền. Tể, có nghĩa là cắt đặt, điều động, điều khiển, sắp đặt, sai sử… giống như quan tể tướng trong triều vua, là vị quan đứng đầu trong tất cả các quan với vai trò cắt đặt, sai sử trông coi việc triều chính quốc gia.Ngày nay,theo thể chế Cộng hòa hay Dân chủ, Tổng Thống kiêm luôn Tổng Tư Lệnh,vừa Chủ,vừa Tể.Cũng như vậy,tâm con người Chủ và Tể cả hai.

Tâm là chủ tể được ví như ông vua trong một nước. Đã là vua, có vua thiện và vua ác đều là chủ tể cai trị dân trong nước. Cho nên vua ác, vua thiện đều chủ tể, tự tại như nhau. Với ông vua có thiện tâm, nhân từ, đạo đức thì luôn quan tâm đến đời sống toàn dân, chăm lo cho dân được an cư lạc nghiệp và khuyên dân tu tập Phật pháp,như vua Trần Nhân Tông của Việt Nam. Còn ông vua có ác tâm, thì buông xuôi việc của dân, để mặc cho toàn dân ra sao đó thì ra, đói no mặc kệ, khổ ách mặc ai, vua an nhiên hưởng lạc, trác táng, sa đọa với cung phi mỹ nữ.

Hai ông vua nói trên, bên thiện, bên ác, cả hai đều có sức mạnh uy quyền như nhau. Ông vua ác có uy quyền qua hành động ác. Ông vua thiện có uy quyền qua hành động thiện.

Cũng như vậy, tâm thiện và tâm ác, cả hai đều có lực chủ tể như nhau. Chủ tể của tâm thiện là tâm luôn luôn hằng chuyển trên dòng sống vô ngã, yểm ly, thanh tịnh, luôn vị tha, thường cứu giúp chúng sinh ly khổ đắc lạc về vật chất và tinh thần,là chỉ cho mọi người biết tu tập các thiện pháp. Chủ tể của tâm ác, là tâm luôn luôn hằng chuyển trên dòng sóng hữu ngã, ích kỷ, không cứu giúp chúng sinh một chút lợi lạc nào, luôn làm cho chúng sinh bị nghèo đói, khổ nạn…

Cho nên tâm là chủ tể của Lục đạo và chủ tể của Phật đạo, Bồ Tát đạo,Thanh văn,Duyên giác đạo, đúng như kinh văn nói: “Tâm giả, đạo chi chủ tể”. Đúng như vậy, có tâm là có đạo, đạo theo tâm, tâm nào thì đạo ấy. Tâm Phật là có Phật đạo trong tâm. Tâm Bồ Tát là có Bồ Tát đạo trong tâm. Tâm nhân từ là có Nhân đạo trong tâm. Tâm tu phước không tu huệ là có Thiên đạo trong tâm. Tâm sân hận và nghi ngờ là có Atula đạo trong tâm. Tâm hung bạo gây khổ đau cho tha nhân là tâm có Địa ngục đạo trong tâm. Tâm tham lam bỏn sẻn là tâm có Ngạ quỷ đạo trong tâm. Tâm si mê tham dục là tâm có Súc sanh đạo trong tâm.

Qua tư tưởng “Tâm giả, đạo chi chủ tể” của kinh văn nói về chủ tể của tâm được qua phần giảng luận trên, cho ta thấy rõ thêm về vai trò của tâm, nó vừa chủ tể nghiệp đạo, vừa tạo tác ra nghiệp đạo, tức là các chủng tử thiện, ác và cũng tự thải hồi chủng tử ác,duy trì chủng tử thiện. Cho nên tâm chủ tể bám sát theo các nghiệp đạo đó, từ thực tại cho đến đoạn cuối ngày mai của đời người, là một quy luật ắt phải,không thể chối từ được, dù là đạo nghiệp cuối cùng đó, là đạo nghiệp Atula, Ngạ quỷ… hay Phật đạo, Nhân đạo, Thiên đạo… tất cả đều là nghiệp đạo cả. Bởi vì một cõi đến của mỗi con người ở cuối đời tại cõi Phật, Trời, Người, hay ngạ quỷ… đều do quả báo nghiệp của những nghiệp đạo đó trong tâm, là sức mạnh dẫn đến một cỏi(một cỏi đi về). Nói rõ thêm, tâm có sức mạnh về loại đạo nào, tâm liền liên kết với loại đạo đó trong đời này và đời sau.

Kết luận..Sức mạnh của Tâm,là tâm chủ tể các đạo,tạo tác ra các thứ Thiện đạo,Ác đạo.Những thứ đạo này luôn đeo đẳng trong tâm,cho nên nói nhiều tâm,là có nhiều đạo trong tâm rất đúng.Nói một tâm (nhất tâm),một đạo,đó là Phật đạo càng đúng hơn đối với các hành giả trên vận hành tu tập Phật pháp,để mong cầu đạt được con đường giải thoát .


* Khách hành hương chính là Bồ Tát Quán Thế Âm sau khi nghe được bà lão vùng Tây Khương khởi tâm mong muốn gặp Phật pháp, để học hỏi mà tu tập sám hối nghiệp chướng, nên Ngài thị hiện ra, chỉ cho bà lão câu thần chú của Ngài là “Om Ma Ni Pát Mi Hôm”( Ưng dĩ Cư sĩ thân đắc độ giả,tức hiện Cư Sĩ thân nhi vị thuyết pháp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2013(Xem: 6135)
Nhiều người cho rằng đức tin và trí tuệ trong thiền quán (vipassanà) đối nghịch nhau, mâu thuẫn và không thể phối hợp. Không phải vậy! chúng thân hữu và là hai nội lực quan trọng. Trong thông tin vừa rồi, tôi đã viết về những điểm đặc thù và khác biệt giữa các hành giả châu Aù và phương Tây.
29/03/2013(Xem: 10466)
Tư tưởng hiện đại hay (tâm hồn hiện đại) cũng không xa tư tưởng ngày xưa là mấy. Những triết gia từ thiên cổ đã mở rộng tâm thức bao quát mọi chân trời. Có người đã lặng thinh.
01/03/2013(Xem: 6725)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo, làm căn bản cho bộ Duy thức luận của Vasubandhu. Học thuyết Duy tâm được biểu hiện trong các câu quen thuộc, thường được trích dẫn trong kinh Lăng Già, chỗ nào cũng là tâm cả (nhất thiết xứ giai tâm), tất cả hình tướng đều do tâm khởi lên (chúng sắc do tâm khởi), ngoài tâm không có cái gì được trông thấy (tâm ngoại vô sở kiến), thế gian chỉ là tâm (tam giới duy thị tự tâm), ba cõi do tâm sinh (tam giới do tâm sinh) v.v..
26/02/2013(Xem: 4189)
Kinh Đại Bát Nhãnói Bồ-tát là người “Vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cứu độ những chúng sanh điên đảo chấp ngã” (Phẩm Đạo thọ thứ 71), “vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác” (Phẩm Nhất niệm thứ 76), “hành sáu ba la mật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại, mười tám pháp bất cọng, hành đại từ đại bi, hành nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh” (Phẩm Bồ-tát hạnh thứ 72).
12/01/2013(Xem: 4916)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì của bản văn, giải thích chủ yếu. Phần này có ba phần: ý nghĩa danh đề của bản văn, nội dung của bản văn và lời cuối. Chương 1 của Giải thích Trung Luận này gồm có Các giải thích mở đầu [= Giải thích Trung Luận. (Bài 1)], Tụng mở đầu Trung luận [Giải thích Trung Luận (Bài 2)], và Giải thích về chương 1 của Trung Luận. Phần thứ nhì là giải thích các chương từ chương 2 tới chương 27.
09/01/2013(Xem: 3869)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng. Nếu toàn thể và những bộ phận tồn tại trong cách mà chúng hiện diện đối với quý vị, quý vị phải có thể chỉ ra một tổng thể riêng biệt với những phần tử của nó. Nhưng quý vị không thể làm như thế.
31/12/2012(Xem: 6673)
Phật giáo hiện hữu trên đất nước Việt Nam, hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của đất nước Phật giáo luôn làm tròn sứ mệnh của một tôn giáo gắn liền với nền văn hoá nước nhà. Chiến tranh đi qua, để lại bao đau thương mất mát, cảnh vật hoang tàn, đời sống nhân dân nghèo đói cơ hàn. Đến thời độc lập, ngoại xâm không cò n nữa, đất nước từng bước chuyển mình đi lên, Phật giáo cũng nhịp nhàn thay màu đổi sắc vươn lên, GHPGVN được ra đời vào ngày 07/11/1981 đến nay gần 22 năm với VI nhiệm kỳ hoạt động của giáo hội.
29/12/2012(Xem: 5862)
Chủ đề của sách này chính là ‘không’. Nói đơn giản: cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp. Cái không của Bát-nhã là ‘nghĩa sâu sắc’ của sự thể ngộ. Cái không của Long thọ là là giả danh, tánh không của kinh Bát-nhã, và sự thống nhất trung đạo và duyên khởi của kinh A-hàm.
28/12/2012(Xem: 10378)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
12/12/2012(Xem: 6458)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánh – Phật giới (buddha-dhātu), v.v., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều, nhưng làm tính khả năng để thành Phật, trên phương diệt bổn tánh chẳng phải là hai của chúng sanh và Phật để nói, thì có ý nghĩa nhất trí với nhau. Tại Ấn-độ, sự hưng khởi của thuyết Như lai tạng khoảng vào thế kỷ thứ 3 A.D., từ giai đoạn sơ kỳ Đại thừa tiến vào hậu kỳ Đại thừa Phật giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]