Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VI. Kết luận

18/09/201215:28(Xem: 8380)
VI. Kết luận

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú


VI. KẾT LUẬN

Phật dạy: “Không ai có quyền ban phước hay giáng họa cho một người nào. Chính suy nghĩ, lời nói, việc làm sẽ đem đến phước hay họa cho bản thân họ mà thôi”. Những việc ở thế gian hay trong phật pháp như giàu-nghèo, mạnh khỏe-ốm đau, sống thọ-chết yểu, thông minh-ngu dốt đều không ngoài định luật nhân quả. Cổ nhân nói: “Một miếng ăn, một miếng uống đều là do nhân tiền định”. Trong kinh Phật dạy: “Muốn biết nhân đời trước xem quả hưởng đời nay. Muốn biết quả hưởng đời sau xem tạo tác nhân đời này”.

Nhân quả tương thông ba đời. Chúng ta nếu như đời này được giàu sang, thông minh, mạnh khỏe, xinh đẹp là do đời trước tu bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Ngược lại, đời này nghèo cùng, ngu si, ốm đau, xấu xí, v.v… là do đời trước thiếu tu. Nếu như chư Phật có quyền ban phước hay giáng họa cho ai thì chúng ta không cần phải tu nữa, cũng không cần phải lạy lục, cầu khẩn, van xin. Vì chư Phật, Bồ-tát với lòng đại từ đại bi bao la rộng lớn, thương chúng sanh như mẹ hiền thương con thơ. Các Ngài sẽ không đợi cho chúng sanh đến để cầu nguyện, van xin. Ví như ánh trăng nào có chê bai mặt nước trong mới chiếu bóng, còn nước đục thì không chiếu bóng. Ánh trăng là vật vô tri mà còn không có tính khen-chê, lấy-bỏ như thế. Ngay như đức Phật khi còn tại thế còn phải bị luật nhân quả chi phối, không vượt thoát qua được (Ngài bị đau đầu ba ngày, phải ăn lúa mạch ngựa ba tháng, v.v…) Đó là do cái nhân không tốt, nhân ác, mà trước khi Ngài thành Phật đã tạo ra.

Thuở xưa vua Tỳ-lưu-ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, đức Thế Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn giả Mục-kiền-liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì Ngài bảo đó là định nghiệp. Tôn giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-ly vương đánh dẹp xong dòng tộc họ Thích, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ. Cho nên chư Phật có ba việc làm được và ba việc làm không được, gọi là "Tam năng tam bất năng". Các điều ấy là:

- Chư Phật có thể thông tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể diệt được định nghiệp.

- Có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ những chúng sanh vô duyên với Ngài.

- Có thể độ vô lượng chúng sanh, song không thể độ hết chúng sanh giới.

Sức người cố nhiên là hữu hạn, nhưng sức Phật vẫn chưa phải toàn năng. Nếu chúng sanh không tín hướng đức Như Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-tát cũng không thể hóa độ được. Ðức Phật giải thích rằng vị cứu tinh hay chỗ nương tựa của ta, phải là chính ta chớ không ở đâu khác. Chính ta là chủ của ta, chứ không ai khác hơn:

Tự mình là vị cứu tinh

Tự mình nương tựa vào mình tốt thay

Nào ai cứu được mình đây?

Tự mình điều phục hàng ngày cho chuyên

Thành ra điểm tựa khó tìm.

(Kinh Pháp Cú 160)

Ban_Tho_Phat_Tai_Gia

Bàn thờ Phật tại nhà - ảnh minh họa

Bởi thế, người xưa thường nói: “Muốn ăn thì phải lăn vào bếp. Muốn hưởng quả ngọt thì phải trồng cây”. Mong rằng qua bài viết này, hàng Phật tử chúng ta mỗi khi bước chân về chùa nên hiểu về “Ýnghĩa chân thật của Phật giáo” để không còn việc thắp nhang cầu nguyện van xin. Nếu không, vô tình chúng ta biến chư Phật, Bồ-tát thành những vị thần chuyên ban phước giáng họa. Theo Hòa thượng Tịnh Không còn nói, Phật tử về chùa dâng cúng lên Phật một ít hoa, trái cây, cúng vô thùng Phước sương mấy đồng rồi thắp nhang cầu nguyện, van xin nào là cầu cho con làm ăn phát tài, mạnh khỏe, bình an, hạnh phúc, v.v… Vô tình chúng ta biến chư Phật, Bồ-tát thành những vị quan tham ô, nhận hối lộ. Còn chúng ta là những tội nhân chuyên đút lót. Về chùa để tạo phước đâu không thấy, chỉ thấy tội nghiệp ngày càng thêm dày, thêm nhiều.

Nhân đây, người viết xin trích dẫn một bài kinh về lời Phật dạy vấn đề Cầu Nguyện trong kinh tạng Nikaza, để minh chứng về việc ý nghĩa chân thật của Phật giáo, cũng để khẳng định rằng Phật giáo không phải là một Tôn giáo chỉ biết van xin, cầu nguyện, ban phước, v.v…

CẦU NGUYỆN[6]

Một thời, Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba.Cóvị thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến đảnh lễ rồi bạch đức Thế Tôn.

Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn có thể cầu nguyện cho một người đã chết bằng cách kêu tên vị ấy lên và dẫn vị ấy vào Thiên giới?

Này Thôn trưởng, Ông nghĩ như thế nào khi có một người sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, vọng ngữ, tham lam, sân hận, tà kiến. Khi người ấy mạng chung, mọi người tụ họp cầu khẩn, mong rằng người này được sinh vào Thiên giới.

Này Thôn trưởng, ví như có người lấy một tảng đá lớn ném xuống hồ nước sâu. Rồi tụ họp mọi người lại cầu khẩn, mong rằng tảng đá hãy nổi lên. Ông nghĩ thế nào, tảng đá đó do nhân duyên cầu khẩn mà có thể nổi lên không?

- Thưa không, bạch đức Thế Tôn.

Cũng vậy, những người sống theo ác hạnh như trên, khi mạng chung dù được cầu nguyện sinh vào Thiên giới nhưng vẫn phải đọa vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ.

Ông nghĩ thế nào, này thôn trưởng, khi có một người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh, không vọng ngữ….có chánh tri kiến, khi người ấy mạng chung, mọi người tụ họp cầu khẩn, mong rằng người này bị đọa vào địa ngục?

Này thôn trưởng, ví như có người đem dầu đổ xuống hồ nước. Rồi tụ họp mọi người lại cầu khẩn, mong rằng dầu hãy chìm sâu xuống nước. Ông nghĩ thế nào, dầu ấy do nhân duyên cầu khẩn mà có thể chìm xuống đáy hồ?

- Thưa không, bạch đức Thế Tôn.

Cũng vậy, những người sống theo thiện hạnh như trên, khi mạng chung dù bị cầu nguyện đọa vào địa ngục nhưng vẫn sanh lên Thiên giới.

(ĐTKVN, Tương Ưng IV, chương 8, phần người đất phương Tây hay người đã chết, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.488)

Rất mong hàng Phật tử thực hành đúng theo lời Phật dạy để được nhiều lợi ích cho việc giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

------------------------

[1]Trích trong Phật Pháp bách vấn – tập 1

Biên soạn: Huyền Ngu – Quảng Tánh – NXB Tôn giáo

[2]Trích trong Phật giáo là gì?

Tác giả: HT. Tịnh Không – Thích Tâm An dịch – XNB Tôn giáo

Nội dung bài viết này tác giả dựa đều trên tư tưởng của HT. Tịnh Không trong quyển Phật giáo là gì. Ngoài ra, người viết còn tham khảo một số tài liệu trên Internet của những bậc thiện tri thức.

[3] [4] [5]Trích trong Góp Nhặt Lá Bồ đề

Biên soạn: Thích Tịnh Nghiêm

[6]Trích trong Lời Phật dạy trong kinh tạng Nikàya tập 2 chương V

Biên soạn: Quảng Tánh – NXB Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2015(Xem: 11175)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ? I . Triết học là gì? Triết học (philosophy) là một từ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp cổ đại: philosophia ( tiếng phiên âm theo Anh văn), có nghĩa là lòng yêu mến sự hiểu biết. Nói rộng hơn, triết học là những quan niệm, tư tưởng, thái độ của một cá nhân hay một nhóm người siêu việt.
19/07/2015(Xem: 10504)
Khi còn trong phiền não trói buộc thì Chơn Như là Như Lai Tạng. Khi ra khỏi phiền não thì Chơn Như là Pháp Thân. Trong Phật Tánh Luận chữ Tạng có 3 nghĩa như sau: 1/- Chân Như lập ra 2 nghĩa: - Hòa Hiệp: sanh ra tất cả các Pháp “nhiễm”. (2)- Không Hòa Hiệp: Sanh ra tất cả Pháp “thanh tịnh”. Tất cả các Pháp Nhiễm và Thanh Tịnh đều thuộc Như Lai Tạng, tức là Thâu Nhiếp Chơn Như, gọi là Như Lai Tạng. Tức là Chân Như thâu nhiếp tất cả Pháp. Hay gọi Như Lai Tạng là tất cả Pháp cũng cùng ý nghĩa đó.
02/07/2015(Xem: 15217)
Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi. Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian - môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.
01/07/2015(Xem: 23858)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 11054)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
24/06/2015(Xem: 30620)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 9617)
Bài Tâm Kinh Bát Nhã có tất cả 7 chữ 'Không" trong đó chữ "Không Tướng" đã được đề cập, ngay ở câu văn thứ ba: "Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng..."(Xá Lợi Tử ! Tướng Không của các pháp...). Nếu hiểu 'chư pháp' (các pháp) ở đây chính là các pháp đã vừa được nêu ra ở câu văn thứ nhì ("Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị") thì các pháp này chính là Ngũ Uẩn pháp và chính câu văn kinh thứ nhì này đã khai thị về Không Tướng (và cả Không Thể) của Ngũ Uẩn.
15/06/2015(Xem: 23385)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/06/2015(Xem: 6433)
Các thuật ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
11/06/2015(Xem: 11776)
Tám Bài Kệ Chuyển Hóa Tâm và Phát Khởi Bồ Đề Tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 giảng. Thích Hạnh Tấn dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]