Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Ojai, ngày 5 tháng 7 năm 1953

01/07/201100:59(Xem: 3521)
21. Ojai, ngày 5 tháng 7 năm 1953

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Ojai, ngày 5 tháng 7 năm 1953

Hiểu rõ toàn nội dung của cái trí – những phủ nhận của nó, những kháng cự của nó, những hoạt động kỷ luật của nó, những nỗ lực khác nhau để an toàn của nó, tất cả những điều này quy định và giới hạn sự suy nghĩ của nó – liệu cái trí, như một tiến hành hội nhập, có thể được hoàn toàn tự do để khám phá cái vĩnh hằng hay không? Bởi vì nếu không có khám phá đó, nếu không có trải nghiệm của sự thật đó, mọi vấn đề của chúng ta cùng những giải pháp của chúng chỉ dẫn đến đau khổ và thảm họa hơn nữa. Điều đó rõ ràng, bạn có thể thấy nó trong cuộc sống hàng ngày. Theo cá thể, theo chính trị, theo quốc tế, trong mọi hoạt động, chúng ta đang nuôi dưỡng mỗi lúc càng nhiều ma mãnh, mà là điều không tránh khỏi nếu chúng ta đã không trải nghiệm trạng thái tôn giáo đó, trạng thái đó mà có thể trải nghiệm được chỉ khi nào cái trí hoàn toàn được tự do.

Sau khi nghe được điều này, liệu bạn có thể, chỉ trong một giây, biết được tự do đó hay không? Bạn không thể biết nó chỉ bởi vì tôi đang gợi ý nó, vì lúc đó nó sẽ chỉ là một ý tưởng, một quan điểm mà không có bất kỳ ý nghĩa nào. Nhưng nếu bạn đã theo sát rất nghiêm túc, bạn đang bắt đầu ý thức được qui trình của suy nghĩ riêng của bạn, của phương hướng của nó, những mục đích của nó, những động cơ của nó; và vì ý thức được, bạn chắc chắn đến một trạng thái trong đó cái trí không còn đang tìm kiếm, đang chọn lựa, đang đấu tranh, để thành tựu. Vì đã trực nhận toàn qui trình riêng của nó, cái trí trở nên tĩnh lặng lạ thường, không có bất kỳ phương hướng, không có bất kỳ ý chí, không có bất kỳ hành động nào của ý muốn. Ý chí vẫn còn là ham muốn, phải vậy không? Con người tham vọng trong ý nghĩa của phàm tục có một ham muốn mạnh mẽ để thành tựu, để thành công, để trở nên nổi tiếng, và anh ấy vận dụng ý chí cho sự quan trọng tự tạo của anh ấy. Giống như vậy, chúng ta vận dụng ý chí để phát triển đạo đức, để đạt được một trạng thái tạm gọi là tinh thần. Nhưng điều gì tôi đang nói hoàn toàn khác hẳn; nó loại bỏ hoàn toàn bất kỳ ham muốn nào, bất kỳ hành động nào hướng về tẩu thoát, hay bất kỳ cưỡng bách nào để là điều này hay điều kia.

Khi tìm hiểu điều gì tôi đang nói, bạn đang vận dụng lý luận, phải vậy không? Nhưng lý luận chỉ có thể dẫn đến một chừng mực nào đó và không tiến xa hơn nữa. Rõ ràng chúng ta phải vận dụng lý luận, khả năng suy nghĩ ra những sự việc một cách trọn vẹn mà không phải kết thúc nửa chừng. Nhưng khi lý luận đạt đến giới hạn của nó và không thể tiến xa hơn nữa, lúc đó cái trí không còn là dụng cụ của lý luận, của ma mãnh, của tính toán, của tấn công và phòng vệ, bởi vì chính cái trung tâm từ đó phát sinh tất cả những tư tưởng của chúng ta, tất cả những xung đột của chúng ta đã kết thúc.

Vì rằng lúc này bạn đã lắng nghe, chắc chắn bạn đang bắt đầu tỉnh thức được chính bạn từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc suốt ngày trong những hoạt động khác nhau của bạn. Cái trí đang đến được hiểu rõ về chính nó, cùng tất cả những lầm lạc của nó, những kháng cự của nó, những niềm tin của nó, những theo đuổi của nó, những tham vọng của nó, những sợ hãi của nó, những thôi thúc để thành tựu của nó. Vì tỉnh thức được tất cả việc này, liệu cái trí có thể, ước gì trong một khoảnh khắc, hoàn toàn tĩnh lặng, biết một tĩnh lặng trong đó có tự do? Và khi có tự do của tĩnh lặng đó, vậy thì chính cái trí không là vĩnh hằng hay sao?

Muốn trải nghiệm cái không biết được, chính cái trí phải là cái không biết được. Từ trước đến nay, cái trí là kết quả của cái đã được biết. Bạn là gì ngoại trừ sự tích lũy của cái đã được biết, của tất cả những phiền muộn của bạn, của tất cả những hãnh tiến của bạn, những tham vọng, những đau khổ, những thành tựu, và những thất vọng của bạn? Tất cả sự việc đó là cái đã được biết, cái đã được biết trong thời gian và không gian; và chừng nào cái trí còn đang vận hành trong lãnh vực của thời gian, của cái đã được biết, nó không bao giờ có thể là cái không biết được, nó chỉ có thể tiếp tục trải nghiệm sự việc nó đã biết được. Làm ơn, đây không là một điều gì đó phức tạp hay kỳ bí. Tôi đang diễn tả những sự kiện rõ ràng của sự tồn tại hàng ngày của chúng ta. Bị chất nặng bởi cái đã được biết, cái trí tìm kiếm để khám phá cái không biết được. Làm thế nào nó có thể làm được? Tất cả chúng ta đều nói về Thượng đế: trong mọi tôn giáo, trong mọi nhà thờ và đền chùa từ ngữ đó được sử dụng, nhưng luôn luôn trong hình ảnh của cái đã được biết. Chỉ có rất, rất ít người rời bỏ mọi nhà thờ, mọi đền chùa, mọi quyển sách, rất ít người vượt khỏi và khám phá.

Lúc này, cái trí là kết quả của thời gian, của cái đã được biết, và khi cái trí như thế khởi sự để khám phá, nó chỉ có thể khám phá cái gì nó đã trải nghiệm rồi, mà là cái đã được biết. Muốn khám phá cái không biết được, cái trí phải giải thoát trọn vẹn chính nó khỏi cái đã được biết, khỏi quá khứ, không phải bằng sự phân tích từ từ, không phải bằng khoét sâu từng bước một vào quá khứ, diễn giải mọi giấc mộng, mọi phản ứng, nhưng bằng thấy sự thật của tất cả việc này một cách trọn vẹn, ngay tức khắc, khi bạn đang ngồi ở đó. Chừng nào cái trí còn là kết quả của thời gian, của cái đã được biết, nó không bao giờ có thể tìm ra cái không biết được, mà là Thượng đế, sự thật, hay bất kỳ điều gì bạn muốn. Thấy sự thật của việc đó giải thoát cái trí khỏi quá khứ. Đừng ngay lập tức diễn giải sự giải thoát khỏi quá khứ khi không biết cách về nhà của bạn. Việc đó rất trẻ con. Đừng đơn giản nó thành một suy nghĩ ngây ngô như thế. Nhưng cái trí được tự do ngay khoảnh khắc nó thấy sự thật rằng nó không thể tìm ra sự thật, trạng thái lạ thường của cái không biết được này, khi nó bị chất đầy bởi cái đã được biết. Hiểu biết, trải nghiệm là cái “tôi lệ thuộc”, bản ngã, cái ngã mà đã tích lũy, đã thâu lượm; vì vậy mọi hiểu biết phải bị gạt đi, mọi trải nghiệm phải bị xóa bỏ. Và khi có sự tĩnh lặng của tự do, lúc đó chính cái trí không là vĩnh hằng hay sao? Vậy là nó đang trải nghiệm cái gì đó hoàn toàn mới mẻ, mà là sự thật; nhưng muốn trải nghiệm cái đó, cái trí phải là cái đó. Làm ơn đừng nói cái trí là sự thật. Không phải vậy đâu? Cái trí có thể trải nghiệm sự thật chỉ khi nào nó được hoàn toàn tự do khỏi thời gian.

Toàn tiến hành của sự khám phá này là tôn giáo. Chắc chắn tôn giáo không là điều gì bạn tin tưởng; nó không liên quan đến liệu bạn là một người Thiên chúa giáo, hay một người Phật giáo, một người Hồi giáo, hay một người Ấn độ giáo. Những sự việc đó không có ý nghĩa gì cả; chúng là một cản trở, và cái trí muốn khám phá phải hoàn toàn xóa sạch tất cả chúng. Muốn mới mẻ, cái trí phải một mình. Muốn sáng tạo vĩnh hằng hiện diện, chính cái trí phải trong trạng thái đó để thâu nhận nó. Nhưng chừng nào nó còn ngập tràn những lao dịch và những đấu tranh riêng của nó, chừng nào nó còn bị chất đầy hiểu biết và bị phức tạp bởi những cản trở tâm lý, cái trí không bao giờ có thể được tự do để thâu nhận, để hiểu rõ, để khám phá.

Một con người tôn giáo thực sự không là con người bị phủ đầy bởi những niềm tin, những giáo điều, những nghi lễ. Anh ấy không có những niềm tin; anh ấy đang sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, không bao giờ tích lũy bất kỳ trải nghiệm nào, và vì vậy anh ấy là con người cách mạng duy nhất. Sự thật không là một tiếp tục trong thời gian; nó phải được khám phá mới mẻ lại tại từng khoảnh khắc. Cái trí thâu lượm, bám chặt, ấp ủ bất kỳ trải nghiệm nào, không thể sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc đang khám phá cái mới mẻ.

Những người thực sự nghiêm túc, không hời hợt, không chỉ đang đùa giỡn với tất cả việc này, có một quan trọng lạ thường trong cuộc sống, bởi vì chính là họ mà sẽ trở thành một ngọn đèn cho chính họ, và vì vậy, có lẽ, cho những người khác. Nói về Thượng đế mà không có trải nghiệm, không có một cái trí hoàn toàn tự do và vì vậy mở cánh cửa vào cái không biết được, chẳng có giá trị bao nhiêu. Nó giống như những con người trưởng thành đang đùa giỡn với những đồ chơi; và khi chúng ta đùa giỡn với những đồ chơi, gọi nó là “tôn giáo”, chúng ta đang tạo ra càng nhiều hoang mang, càng nhiều đau khổ hơn.

Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ toàn qui trình của suy nghĩ, khi chúng ta không còn bị trói buộc trong tư tưởng riêng của chúng ta, lúc đó cái trí có thể tĩnh lặng. Và chỉ lúc đó vĩnh hằng có thể hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2010(Xem: 10342)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời...
07/12/2010(Xem: 6465)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
02/12/2010(Xem: 18603)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết học và thi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nở ở Ấn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
28/11/2010(Xem: 5570)
Vậy, những loại thực phẩm nào trưởng dưỡng, đưa đến trạng thái điều hòa giữa nội giới và ngoại giới, là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của sinh vật trong nấc thang tiến hóa? Khế kinh nói có bốn loại thực phẩm: 1. Đoàn thực hay đoạn thực 2. Xúc thực 3. Ý tư thực 4. Thức thực
28/11/2010(Xem: 4028)
Ngay từ thời khởi nguyên của lịch sử tư tưởng Ấn Độ, thời gian vốn đã là đề tài luôn kích thích mạnh mẽ óc suy tưởng của các triết gia Ấn và khiến họ đi đến nhận định rằng thời gian không những là tác nhân liện hệ đến sự hình thành của vũ trụ mà nó còn là một nhân tố phổ quát chi phối đến vạn vật trong cuộc sống. Dần dần với ảnh hưởng của những trào lưu tư tưởng mới người ta còn xem thời gian là một trong những yếu tố quyết định các hình thái đa dạng của mọi hiện tượng trong thiên nhiên, thậm chí Silanka, một tư tưởng gia của Kỳ Na giáo còn cho rằng thời gian có thể được xem như một nguồn lực tạo nên sự tiến hóa của muôn vật trong thế giới bao la này.
24/11/2010(Xem: 3818)
Bài thơ vận nước có thể giải mã một cách đích xác và cụ thể những yếu tố gì có thể làm cho vận nước được dài lâu. Đó là sự đoàn kết của toàn dân và phẩm chất tài đức của người lãnh đạo. Tổ tiên ta hơn ngàn năm trước đã dùng hình ảnh cuộn mây (đằng lạc). Từng con người có thể yếu yếu ớt như từng chiếc đũa, từng sợi mây, nhưng biết kết hợp lại thì sẽ trở thành một sức mạnh vô địch, không gì có thể phá vỡ được.
22/11/2010(Xem: 12501)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
16/11/2010(Xem: 7916)
Trướchết chúng ta phải hiểu Tâm là gì?Trong tiếng Hán,Tâm là trái tim. Từ cái nghĩa tâm là trái tim, rồi sau mớisuy diễn ra tâm là tấm lòng, cho rằng tâm là tấm lòng suynghĩ. Một bài thơ chữ Hán nói về tâm theo nghĩa này nhưsau:
16/11/2010(Xem: 9882)
Hiện nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết, tranh cãi về bệnh tâm thần, thiền định, và sự liên hệ giữa hai đề tài này. Các chuyên gia về sức khỏe thể chất, và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi nghề nghiệp của họ. Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối với người bình thường họ sẽ rất bối rối.
13/11/2010(Xem: 3490)
Phật giáo, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình đã trải qua nhiều giai đoạn với sự phân hoá thành những bộ phái và giáo lý khác nhau. Tựu trung, có thể chia làm hai trường phái tư tưởng lớn là Tiểu thừa (Hīnayāna) và Đại thừa (Mahāyāna). Tư tưởng của Đại thừa chủ yếu có thể quy thành ba hệ chính là Tánh không (Śūnyatā), Duy thức (Vijñapti-mātratā) và Như Lai Tạng (Tathāgata-garbha).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567