Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Thay hình đổi xác

12/03/201102:44(Xem: 4420)
5. Thay hình đổi xác

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

I. Những chuyện tích triết lý

5. THAY HÌNH ĐỔI XÁC

TRÍCH TỪ CUỐN “NĂM TRĂM TRUYỆN XƯA”

của Chavannes

Thuở xưa, có một người kia gặp việc phải đi xa. Trên đường đi, trời tối, người ngủ lại một mình trong một cái nhà bỏ hoang.

Đến nửa đêm, có một con quỷ vác một cái xác chết trên vai, đến bỏ trước mặt người. Lại có một con quỷ khác rượt theo, trách mắng con quỷ trước một cách giận giữ rằng: “Cái xác chết kia vốn thuộc về ta, sao ngươi lấy mà đem đến đây?” Hai con quỷ nắm lấy tay xác chết, cố dành giật nhau. Con quỷ đến trước nói: “Ở đây có một người, ta có thể hỏi xem, trong hai ta ai đem xác chết này đến trước.” Người kia nghe vậy, nghĩ rằng: “Hai con quỷ này mạnh mẽ lắm, dầu ta nói thật hay nói dối cũng đều phải chết, thế nào cũng không tránh khỏi. Vậy ta chẳng nên nói dối làm gì?” Ông liền nói thật, rằng con quỷ đến trước kia đã mang xác chết đến.

Liền đó, con quỷ đến sau chộp lấy tay ông, xé xác ông ra và quăng xuống đất. Nhưng con quỷ kia liền lấy một cái tay của xác chết mà ráp vào thân ông và làm cho liền lại. Dần dần, đến hai chân, đầu, cổ và xương cốt của ông cũng đều bị con quỷ đến sau giật lấy, và cũng nhờ con quỷ đến trước dùng xác chết kia mà gắn vào lại. Rồi hai con quỷ chia nhau mà ăn thịt của ông, lúc ấy đã chuyển đổi cả qua cho cái xác chết ban nãy. Ăn xong, chúng chùi miệng và bỏ ra đi.

Người kia khi ấy nghĩ rằng: “Thân thể mà cha mẹ ta sanh ra, nay đã bị hai con quỷ ấy xé ra mà ăn hết rồi. Ta tuy còn sống đây, nhưng trọn cả thân hình đều là xương thịt của người khác. Nay ta còn có thân thể hay không? Hay là ta không còn thân thể nữa? Nếu nói rằng ta có thân thể, thì xét ra toàn là xương thịt của người khác. Còn nếu nói rằng không có, thì thân thể nào mà ta đang sống rõ ràng đây?” Người ấy suy nghĩ như vậy, trong đầu óc lấy làm lộn xộn, hoang mang, như người đã mất trí khôn.

Sáng hôm sau người ấy thức dậy và lên đường. Đi đến một xứ kia, nơi ấy ông phải ghé vào vì công việc, ông thấy gần một ngôi tháp Phật có nhiều vị tỳ-kheo đang hội họp. Ông chẳng biết hỏi chuyện chi khác hơn là muốn biết xem thân thể của mình là có hay không. Mấy vị tỳ-kheo hỏi ông rằng: “Ông là người ở đâu?” Ông đáp: “Thật ra, tôi cũng không biết được tôi có phải là người hay không phải là người nữa.”

Rồi ông thuật lại với chư tỳ-kheo chuyện đã xảy ra. Chư tỳ-kheo nói với nhau rằng: “Người này đã hiểu được rằng thân thể vốn không phải là có thật. Chắc ông ta sẽ được giải thoát rất dễ dàng.”

Chư tỳ-kheo mới nói với người ấy rằng: “Từ đời vô thủy đến nay, thân thể của ngươi vốn vẫn thường do nơi cái không thật của bản ngã mà thành ra có, chẳng phải đến ngày nay mới như vậy đâu. Chẳng qua chỉ là bốn chất đất, nước, lửa, gió kết hợp với nhau, làm cho người lầm tưởng là thân thể của mình đó thôi.”

Người kia chợt hiểu ra, liền xin được quy y thọ pháp xuất gia, dứt bỏ những nhân duyên làm cho con người mê muội. Không bao lâu, người thông hiểu đạo lý, chứng quả A-la-hán.

Chuyện này cho thấy, bất cứ ai hiểu được rằng tự ngã vốn là không thật, biết tham thiền về sự không thật của tự ngã, thì người ấy đã đến gần được sự giải thoát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/04/2011(Xem: 5394)
Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lý trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xã hội mà không dựa vào Thần Linh.
29/03/2011(Xem: 8514)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta? Đức Đạt Lai Lạt Ma cống hiến giải pháp của ngài. Với nhiều tín đồ, chấp nhận tính chính đáng của những truyền thống tín ngưỡng khác đặt ra một thử thách nghiêm trọng. Để chấp nhận những tôn giáo khác là chính đáng có thể dường như làm tổn hại tính nguyên vẹn niềm tin tôn giáo của chính mình, vì nó đòi hỏi sự thu nạp những con đường tâm linh khác nhau nhưng hiệu quả.
20/03/2011(Xem: 3950)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 7185)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 3705)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4042)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 4419)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4234)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3113)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 2977)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567