Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Khuyến tu

11/01/201115:35(Xem: 5427)
15. Khuyến tu

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

KHUYẾN TU

(Bàinói chuyện với Tăng Ni, nhân mùa khai giảng Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Huế, khóa I, niên học 1997-2001)

Trong đời này, đã là người đi họcthì ai cũng muốn học giỏi. Vậy muốn học giỏi phải làm thế nào? Theo tôi nghĩ:

1. Phải có tâm cầu học

Chúng ta phải thật sự có tâm cầuhọc, phải thành thật có tâm cầu học. Vì thường chúng ta hay nghĩ: Học để khỏithua người khác. Đó chỉ là cái ý so sánh để khích lệ chúng ta học tập mà thôi.Cái chính là chúng ta phải ý thức chúng ta là một người xuất gia học Phật, theomột đấng Giáo chủ với một đạo lý thâm huyền, chúng ta phải có bổn phận tu đạo,hành đạo và hóa đạo. Nếu chúng ta không biết gì về giáo lý của Phật cả thì tựchúng ta tu cũng không thành và chắc chắn không ai hóa độ ai được cả.

Khi chúng ta nói học để khỏi thuangười khác thì giả sử khi không sợ thua người khác thì chúng ta không học haysao? Cho nên, học để khỏi thua người khác chỉ là một lý do chúng ta tự đặt rađể khuyến khích chúng ta thôi, không phải là lý do chính. Lý do chính là tâmthành thật cầu học đạo. Bởi vì như chúng ta biết, đạo lý của Phật phải có duyênlành mới gặp được. Đạo Phật là đạo giải thoát, đức Phật là đấng Giác ngộ thìgiáo lý của Phật là kho tàng đạo lý giác ngộ. Nếu chúng ta không học thì làmsao chúng ta biết được đạo lý ấy? Nhiều khi vô tình chúng ta nói: Đạo Phật caosiêu lắm. Nhưng nếu có người hỏi Đạo Phật cao siêu ở chỗ nào, thì chúng takhông làm sao đáp được. Đó là một khuyết điểm lớn đáng buồn.

Các anh em cũng thấy rõ trong hàngTăng ni chúng ta bây giờ có một số thường mắc phải cái bệnh lý luận: Bàn nhữngviệc khác của thế gian thì lý luận rất rạch ròi, nhưng khi đi vào giáo lý, giáopháp của Phật thì lúng túng, lập luận không vững vàng, cụ thể.

Bây giờ muốn tránh cái bệnh ấy, chúngta phải cố tâm cầu học thật sự. Cầu học thật sự để hiểu rõ giáo ý của Phật,hiểu rõ con đường tu hành để có khả năng giáo hóa người khác một cách đúng đắn,chứ không phải chắp vá, lấy nơi này một câu, lấy nơi khác một câu làm kiến thứccủa mình. Nhiều khi chúng ta đem một câu của ngoại đạo mà cho là của đạo mình.Hiện tại có nhiều sách của ngoại đạo viết, họ dùng giáo lý của đạo chúng ta đểtô bồi, ca ngợi chủ trương giáo lý của họ, hoặc là để chê bai, chỉ trích chúngta. Nếu chúng ta không học thì khi đọc những sách ấy, chúng ta vội cho đấy làlời Phật nói. Tất cả những lời họ nói, chúng ta đều cho là lời Phật nói, cho làđúng rồi tin theo. Trước đây có nhiều người cũng dịch kinh Kim-cang, viết vềBồ-tát hạnh mà kỳ thật là người đâu đâu viết, người ngoại đạo viết chứ khôngphải người của Phật giáo. Họ viết như vậy để làm gì? Họ nêu những danh từ Phậtgiáo để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, để làm cho người ta tưởng lầm là sách đạoPhật nên đua nhau đọc, nhưng thật chất không có gì là đạo Phật cả. Nếu chúng takhông học, chúng ta cũng tưởng là sách Phật, rồi chúng ta truyền bá cho tín đồ,khuyên họ nên mua cuốn sách ấy mà đọc. Như vậy, vô tình chúng ta truyền bá cáità đạo, trưyền bá cái tà kiến mà chúng ta không biết, đó mới thật đúng là "ăncơm Phật, đốt râu thầy chùa". Thành thử chúng ta thấy tâm cầu học làmột điều hết sức cần thiết: cần thiết cho mình, cần thiết cho đạo, cần thiếtcho sự nghiệp hành đạo và hóa đạo.

Lại nữa, chúng ta học vì sợ thuangười khác thì khi không sợ thua người khác chúng ta không học hay sao? Thí dụtrong lớp có một người học rất giỏi, mình luôn cố gắng học để khỏi thua ngườiấy. Bỗng nhiên người ấy bỏ học. Bây giờ đến lớp, mình không sợ thua ai nữa, nênkhông cần học nữa. Cho nên, cái tâm niệm học để khỏi thua người khác có cái taihại như thế. Thành thử muốn học giởi thì phải có tâm cầu học. Chính cái tâm ấylà tâm thiết tha mong cầu đạo giải thoát của người xuất gia. Chính cái chánhnhân ấy thúc đẩy, khích lệ chúng ta học giỏi để phục vụ đạo pháp.

2. Phải chăm chỉ chuyên cần

Có tâm cầu học rồi nhưng nếu khôngchăm chỉ, chuyên cần thì chúng ta cũng không giỏi được. Đi học không chuyêncần, đến lớp không chăm chú nghe giảng bài, không ghi chép, về nhà không xem kỹlại bài học, không làm bài tập thì không sao giỏi được. Chăm chỉ, chuyên cầnthật sự rất cần thiết đối với chúng ta.

3. Phải có tâm tu, phải có đức tu

Nghĩa là phải biết chịu thương chịukhó, chịu khổ chịu cực, mới học được. Chúng ta nói "Tu Học" chứ khôngnói "Học Tu", nên Tu là chính, Học là để biết đường Tu. Chúng ta nóiTu Học cũng như đạo Nho nói "tiên học lễ, hậu học văn". Lễ là quantrọng, Văn là thứ yếu. Cũng vậy, các anh em bây giờ cần Tu mới tới đây Học,không Tu anh em tới đây để làm gì? Tu và Học gắn liền với nhau. Như vậy, nêntrong thời gian học ở đây, anh em phải tu mới học được; nghĩa là phải chịuthương chịu khó, chịu khổ chịu cực để mà học.

Hoàn cảnh ăn, ở, học của anh em bâygiờ đầy đủ tiện nghi hơn chúng tôi ngày trước kia rất nhiều lắm. Bây giờ tôi kểra đây anh em nghe những chuyện tưởng như huyền thoại. Nhưng đó là sự thật, nóchỉ mới xảy ra cách đây mấy chục năm thôi.

Trước kia chúng tôi đã học trong mộtngôi trường, nhỏ hơn ngôi trường này và cũng được xây dựng trên mảnh đất này.Trường có ba căn, mỗi căn bằng nửa phòng này. Hai căn dùng làm phòng ngủ, mộtcăn dùng làm phòng học. Phòng hẹp, giường nằm kê sít nhau không có chỗ chenchân vào nên mỗi lần lên giường ngủ cũng rất vất vả. Có khi thiếu giường, chúngtôi phải ghép hai ba cái bàn học lại để ngủ. Chỗ ngủ đã vậy, đồ ăn, đồ mặc, đồnằm chúng tôi cũng rất thiếu thốn. Mùa nắng cũng như mùa mưa, mỗi người mộtchiếc chiếu trắng không có hoa. Đồ đắp thì dùng bao đựng gạo thay mền, đồ mặcthì mỗi người chỉ có một vài bộ quần áo thô nhuộm nâu, mùa lạnh không bao giờcó áo ấm. "Tiền tam tam, hậu cũng tam tam" mà thôi.

Tối đến chúng tôi làm gì có đèn điệnmà đọc, thậm chí không có cả đèn dầu hỏa, chúng tôi chỉ thắp đèn dầu"chuông", đèn dầu "cây", hoặc thắp nhựa thông để học bài,làm bài. Cứ mỗi người một ngọn đèn, hoặc hai người chung nhau một ngọn đèn.Dưới ánh sáng của ngọn đèn "tù mù" chỉ soi sáng một khoảng không giannhỏ hẹp bằng một trang sách, chúng tôi chăm chú mà học. Ngoài phạm vi ấy, chúngtôi không thể thấy gì được nữa.

Có lẽ nhờ vậy nên chúng tôi định tâmmà học để có được như ngày nay. Bởi vì, khi chúng ta đã chú ý vào cuốn sách thìtâm ta không tán loạn, tư tưởng mới đọng lại và sáng lên, chúng ta mới giỏiđược. Bây giờ chúng ta sung túc quá: trong phòng có đèn trần, đèn để bàn rồiđèn ngủ; ngoài cửa còn để đèn "chong", sợ đi ra vấp ngã.

Ngày xưa, không có những tiện nghiấy nên người ta sống hòa hợp; người ta sống với trời, đất, trăng, sao, gần gũivới thiên nhiên hơn. Điều đó cũng hợp với tâm tu lắm đó (Thước-ca-la tâm vôđộng chuyển). Nhờ có hòa hợp với thiên nhiên mà lòng mình bớt được mọi sự phiềnnão triền phược. Ngược lại, cuộc sống hôm nay tiện nghi đầy đủ làm cho conngười cách biệt với thiên nhiên. Đêm người ta không thấy trăng, vì điện sángquá người ta đâu thấy trăng. Có lẽ vì vậy mà ngày nay trăng không còn là nguồncảm hứng của thi nhân. Lý Bạch ngày xưa mơ trăng, uống rượu say, nhảy xuốngsông ôm trăng mà chết. Người xưa đã hòa nhập với thiên nhiên. Cũng vì cách biệtvới thiên nhiên, thành ra tâm người bị phân tán. Tâm đã bị phân tán như vậy,chúng ta làm sao học giỏi được. Người có tâm phân tán như vậy thì chỉ giỏi lýluận mà thôi, còn nói về đạo lý thì không đúng.

Đó là nói về chuyện học và ngủ, cònvề vấn đề ăn uống thì chúng tôi rất kham khổ. Tiêu chuẩn là bốn người một bát"chân tượng" cơm, một tô canh "toàn quốc", một đĩa rau luộchoặc đĩa dưa môn hay là đĩa cải dầm. Ngoài ra, không có món ăn phụ như bánhchuối gì nữa. Hoạ hoằn một năm vài lần được người ta cúng vài "tráichuối". Vì lúc ấy trình độ hiểu biết về Phật pháp của tín đồ còn thấp kém,người phát tâm không nhiều. Hơn nữa, thời đại lúc bấy giờ dân tình cũng cònnghèo đói lắm, muốn cúng các thầy vài buồng chuối cũng phải góp nhau năm bảyngười, một người không đủ sức cúng. Tuy chúng tôi kham khổ như thế, nhưng đócũng là một sự đóng góp rất lớn của những người có nhiệt tâm đối với tương laicủa đạo pháp mới được như thế.

Ấy vậy mà lúc bấy giờ chúng tôi họcnghiêm túc lắm, sợ thầy lắm, sợ thầy chứ không oán thầy. Bây giờ nghĩ lại càngthương thầy và biết ơn thầy. Đi học là phải có ý sợ thầy, kính thầy mới họcđược. Chứ nếu không sợ thầy, kính thầy, ngang bướng quá trớn thì không sao họcđược.

Thời ấy chúng tôi học với một vịgiáo sư, trước là một nhà giáo, sau đi tu, tức Hòa thượng Trí Độ. Hễ có ai làmthầy tức giận là thầy phạt luôn cả lớp chứ không phải chỉ đánh một người. Gọitên người có lỗi chưa kịp lên là thầy đánh luôn tại chỗ. Nhiều khi cả lớp sợchạy luôn. Tôi kể lại như vậy là để các vị thấy tinh thần học tập của chúng tôilúc bấy giờ là chỉ sợ thầy chứ không oán thầy. Chúng tôi sống rất vô tư. Họcvất vả như thế mà chúng tôi không thấy khổ. Cho đến bây giờ chúng tôi cũngkhông hề tiếc rằng: Tại sao chúng ta sinh ra thời ấy làm gì cho khổ? Chúng tôichỉ nghĩ rằng, trên đường đạo, bước sớm được bước nào hay bước đó. Giờ đây tôinhắc lại như vậy để anh em biết mà chuẩn bị tinh thần, tư cách để mà học.

Đó là tinh thần học, còn giải tríthì không biết chơi gì, chỉ có đánh nhảy, đá kiện, đá bóng. Đá bóng thì khôngcó sân cỏ, chỉ có một cái sân, toàn là sạn. Quả bóng thì nhỏ xíu, vô ý bị tướcchân. Chỉ bấy nhiêu trò chơi và chúng tôi chỉ chơi trong sân ấy, không được điđâu xa. Không chơi những trò chơi nguy hiểm. Tuy thế, cũng có một số anh em vìthiếu tinh thần chịu khó, thiếu kiên nhẫn, nên đã bỏ cuộc. Ví dụ như ông ĐỗXuân Tiến, ông học rất giỏi và rất thông minh. Có những bài thầy ra, chúng tôicăm cụi làm hai ba ngày chưa xong, khi làm bài xong, đọc nghe trúc trắc thế nàoấy. Trái lại, ông ta cứ chơi cho đã rồi vào viết một lúc là xong. Bài của ônglại rất hay rất lưu loát. Học giỏi như thế, cuối năm ông thi không đậu, vì sao?Vì ông ham chơi quá. Ai rủ đi chơi đâu ông cũng đi, bỏ bê việc học. Nhiều khi ỷthị tài học và sự thông minh của mình nên không chăm chỉ chuyên cần, bỏ qua nềnếp nhà trường nên mất căn bản về học tập, về đạo đức.

4. Muốn học giỏi là phải tu

Muốn học giỏi phải lo tu. Không tukhông học được. Cũng có một số rất ít người đã bỏ học vì những lý do rất nhỏnhặt, chỉ vì thiếu kiên trì, không kiềm chế được bản năng. Lúc bấy giờ không cónhững thức ăn phụ nên thích ăn vặt, ấy gọi là ăn hàng. Nhưng thật ra chỉ có vàithứ kẹo đặc sản như kẹo Cau, kẹo Gừng, kẹo Đậu phộng mà thôi. Những anh em ấykhông chịu khổ được, không kiềm chế được cái thèm của mình nên phải ăn. Ăn mắcnợ người ta lâu ngày không trả nên người ta đến lớp đòi, các anh ấy xấu hổ bỏhọc. Đã bỏ học rồi họ bỏ tu luôn. Chúng tôi nhờ kiên trì chịu khổ, chịu cực mớicó ngày hôm nay.

Sau này vì thời cuộc, trường bị phântán: Chiến tranh bùng nổ, xứ Huế quá nghèo, Hội không đủ sức đài thọ mới đưamột số học Tăng vào Nam, chỉ để lại trường một số ít thôi. Từ đó, chiến tranhliên miên, người thì chết, người thì đi kháng chiến, kẻ thì hoàn tục. Lớp củachúng tôi chỉ còn lại mấy vị như Hòa thượng Trí Tịnh, tôi, Hòa thượng ThiệnMinh, Hòa thượng Trí Quang, Hòa thượng Huyền Quang cũng có. Và cũng chính trongthời gian Phật giáo cận đại cũng chỉ số anh em này ra gánh vác việc Đạo. Đóchính là nhờ trong giai đoạn học tập đã có tâm thành thật vô tư, chịu khó, chămchỉ mà học nên sau này mới có khả năng để ra gánh vác việc Đạo như vậy. Thêmvào nữa là anh em chúng tôi hồi ấy đối với nhau rất chân tình, không có pheđảng gì cả.

Mấy hôm nay, tôi lên thăm Hồng Đức,thấy anh em nằm giường chật chội, tôi rất xót xa! Vì trong số anh em đây chắccó nhiều người ở nhà cũng thoải mái lắm, ở một mình một phòng rộng, có quạttrần, quạt để bàn; có đền trên trần, có đèn đọc sách, có đèn ngủ... Có ngườicòn có radio, tivi, cassette, nữa. Nghĩ như vậy nên mấy hôm nay tôi cứ thấyngậm ngùi... Bây giờ anh em ở một phòng sáu người thì tuy có hơn chúng tôi thờibấy giờ đôi chút, nhưng so với tiện nghi mà anh em có ở nhà thì ở đây còn chậtchội quá! Không biết anh em có suy nghĩ gì không. Nếu thật tình mà nói như lờiPhật dạy "Nhất thiết duy tâm tạo"thì chúng ta có thể vì sựhọc mà quên đi những thiếu thốn vật chất. Vì khi chúng ta để để hết tâm trí vàoviệc học rồi, thì đâu còn nghĩ đến những tiện nghi vật chất nữa. Lúc ấy đáng lẽkhổ mười phần, chúng ta chỉ thấy khổ một phần hoặc không còn thấy khổ nữa.

Lại như ngày xưa các cụ Nguyễn Trãi,Lê Quý Đôn, Nguyễn Du... các cụ đâu có những tiện nghi vật chất như chúng tabây giờ, mà sao các cụ cũng trở thành đại thi hào, nhà bác học lỗi lạc và cònđể lại cho chúng ta những kiệt tác như thế? Xem đó, đủ biết những tiện nghi vậtchất chỉ là những trợ duyên bên ngoài, cái chính nhân của sự học là tâm cầuhọc, là sự cố gắng nỗ lực, tích cực phát huy khả năng, trí tuệ của mình. Có thểnói anh em bây giờ học chỉ chú trọng bề rộng mà ít chú trọng bề sâu. Phật phápcó nhiều môn, môn nào hợp với khả năng của mình thì nên chú trọng môn ấy hơn,chuyên tâm sưu tầm một cách thấy đáo mới được lợi ích. Cũng như ngoài đời ngườita thường nói: "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", nghĩa là cómột nghề cho thật tinh tường, rồi khéo tay tức là thân được vinh hiển. Cũng vậychúng ta chỉ cần một môn tinh, sâu, sau này chúng ta mới có thể làm một vịgiảng sư vững vàng được.

5. Thái độ học tập

Người xưa nói người có tinh thần họclà người:

Bất sỉ hạ vấn:Là không hổ thẹn khi cúi mình học hỏi người kém nhỏ hơnmình. Vì sao? Vì có người kém hơn mình nhiều điều nhưng có thể có một điều nàođó người ấy giỏi hơn mình, mình nên cúi mình học hỏi họ.

Dũ học dũ ngu:Nghĩa là càng học càng thấy ngu. Không bao giờ chúng tađược phép tự phụ cho là mình biết đủ và có ý khinh mạn sư trưởng, phải luônluôn tự thấy mình thiếu thốn về kiến thức, về tri thức.

Tinh tiến đạo hạnh:Không những về kiến thức, tri thức mà về đạo hạnh cũng vậy.Đức Phật ngày xưa đã từng tắm rửa cho một vị Tỷ-kheo đau ốm và xâu kim cho mộtbà già loà mắt. Thấy vậy, có người đệ tử hỏi Ngài: "Đức Thế Tôn đã đầy đủ,viên mãn phước đức rồi, sao Ngài còn làm những việc phước nhỏ như thế nữa làmgì?" Ngài bảo: "Phước đức đối với ta không bao giờ đủ cả".Đó là một bài học cho chúng ta, Phật mà còn như vậy, huống hồ chúng ta là kẻthiếu học, thiếu đức, chưa có gì đáng để tự phụ. Như vậy, chúng ta phải luônluôn giữ tâm hồn trong trắng, vô tư, khiêm tốn, không kiêu căng ngạo mạn. Đó lànhững đức tính cần thiết để làm việc trong tương lai. Có những người rất giỏinhưng không ai dùng cả vì quá tự phụ, vì họ thiếu đức, thiếu tu. Ở đời mà thiếuđức, thiếu tu cũng không nên làm việc lớn, huống gì trong Đạo. Vì thế, tôi mongrằng trong Viện chúng ta, anh em giữ tư cách đàng hoàng về học cũng như vềhành. Học viện này tốt hay xấu, có tồn tại lâu dài hay không, còn tùy cả ở tưcách đạo đức của anh em. Chúng ta không nên chạy theo tiện nghi vật chất quáđáng, vì đã gọi là "bần Tăng tam thường bất túc" mà chúng ta xa xỉ,thừa thãi quá thì đó là điều đáng hổ thẹn.

Ý thức trách nhiệm:Mở được Học viện này là điều rất quý hóa, là niệm hoan hỷchung cho hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Cho nên, chúng ta phải cốgắng làm sao để Học viện xứng đáng là một Học viện Phật giáo khiến cho hàngPhật tử tại gia tin tưởng vào chúng ta, tin tưởng vào tương lai đạo pháp. Đócũng chính là một cách chúng ta hoằng dương rồi, chứ không phải đợi sau này rathuyết giảng cho họ mới là hoằng đạo. Nếu Học viện không xứng đáng là một Họcviện Phật giáo, làm cho hàng Phật tử tại gia mất tin tưởng ở chúng ta, ở tươnglai đạo pháp, thì vô hình chung chúng ta làm cho họ thoái thất tín tâm.

Học viện đòi hỏi sự đóng góp tíchcực của anh em để xây dựng Học viện vững chắc, xứng đáng là một Học viện Phậtgiáo bằng chính thái độ học tập nghiêm túc, ý thức giữ gìn oai nghi tế hạnh củaanh em. Tôi nói như thế là để anh em thấy cái trách nhiệm chung đối với Họcviện. Ngay bản thân tôi bây giờ đã gần 80 tuổi rồi, tôi không còn ham muốn gìnữa mà đành phải ra gánh vác việc chung, vì tôi nghĩ rằng mình được ngày hômnay là nhờ ai, nhờ Tam Bảo, nên tôi phải làm việc hết mình. Trang Tử ngày xưacó nói: "Người ta ở đời có tam bất hủ là lập ngôn, lập công và lậpđức". Chúng ta bây giờ cũng vậy, cái tâm cầu học, cái chí nguyện hoằngpháp lợi sinh làm sự nghiệp của chúng ta mà thời gian không gian không thể chiphối được. Mong rằng chúng ta luôn luôn giữ vững lập trường trong giảng dạycũng như trong học tập tấn tu Đạo nghiệp.

Tôi nói chuyện với anh em bấy nhiêu.Mong rằng anh em cố gắng, chúng ta cùng nhau xây dựng Học viện một cách tốtđẹp, làm cơ bản cho các lớp hậu học, hầu mong sau này có được những bậc Tăng Nicó thực học, thực đức để ra phục vụ Đạo pháp, báo Phật ân đức.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/03/2011(Xem: 4937)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 7954)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 4318)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4479)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 5038)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4708)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3566)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 3599)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3582)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 16885)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]