Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Tại Sao Dân Số Thế Giới Tăng?

01/01/201109:18(Xem: 8613)
27. Tại Sao Dân Số Thế Giới Tăng?

TẠI SAO DÂN SỐ THẾ GIỚI TĂNG?

Không có cơ sở thực sự để nghĩ rằng đây là thời kỳ duy nhất mà dân số thế giới tăng nhanh.

Nếu người Phật tử không tin vào một lin hồn do thần linh tạo ra, thì làm thế nào để họ giải thích nguyên nhân của sự gia tăng dân số trên thế giới hiện nay? Ðây là một câu hỏi phổ biến thường được nhiều người trong xã hội ngày nay thắc mắc. Những người hỏi câu hỏi này thường giả thuyết rằng chỉ có một thế giới duy nhất nơi mà các chúng sanh đang hiện hữu. Người ta nên xem xét rằng dân số thế giới tăng ở những nơi mà điều kiện khí hậu tốt, những tiện nghi thuốc men sẵn sàng, thực phẩm và sự đề phòng sẵn có để sinh đẻ và bảo vệ mạng sống là một điều rất tự nhiên.

Người ta cũng nên xem xét rằng không có cơ sở thực sự để nghĩ rằng chỉ có trong thời kỳ này dân số thế giới mới gia tăng. Không có những phương tiện để so sánh với bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử thời cổ đại. Những nền văn minh khổng lồ đã xuất hiện và biến mất tại các vùng Trung Á, Trung Ðông, Châu Phi và Châu Mỹ cổ đại. Không có những con số thống kê về những nền văn minh này. Dân sỗ như những vấn đề khác trong vũ trụ này, phải chịu sự chi phối của những chu kỳ thịnh suy. Trong những chu kỳ gia tăng đang báo động của tỷ lệ sinh, người ta có thể được giao làm một công việc để biện luận cho sự tái sinh trong thế giới này hoặc là ở những thế giới khác. Trong mấy nghìn năm qua, không có bằng chứng để chứng minh con số sự sống đang hiện hữu ở nhiều hệ thế giới khác nhau thực sự là vô hạn. Nếu sự sống của con người có thể được so sánh với chỉ một hạt cát thì số chúng sanh trong vũ trụ này giống như số hạt cát trong tất cả những bãi biển trên thế giới này. Khi điều kiện thích hợp và được sự hỗ trợ của những thiện nghiệp, một số trong con số vô hạn những chúng sanh này được tái sinh làm người. Sự tiến bộ của y học đặc biệt trong thế kỷ 19 và 20 đã khiến cho con người sống lâu hơn và sống đời sống khoẻ mạnh hơn.

Ðây là một nhân tố đóng góp cho sự gia tăng nhanh dân số. Dân số có thể tăng nhiều hơn nữa trừ phi con người ý thức đưa ra những biện pháp để kiểm soát nó. Do vậy, trách nhiệm đảm bảo kiềm chế được sự gia tăng dân số nên được giao phó cho lĩnh vực y khoa và những lĩnh vực khác sẵn có trong xã hội hiện nay. Sự đảm bảo về trách nhiệm này không thể được phân công cho một tôn giáo cá biệt nào hoặc là những thế lực bên ngoài.

Có một sự tin tưởng của một số người nào đó cho rằng tất cả những hiện tượng rủi ro, tai ương làm huỷ diệt mạng sống của con người là do thần linh, Thượng đế tạo ra để mà làm giảm đi dân số thế giới. Thay vì tạo ra quá nhiều sự khổ đau cho những sinh vật do mình tạo ra, thế thì tại sao Ngài không thể kiểm soát được dân số? Tại sao càng ngày Ngài càng tạo ra nhiều người sinh sống trong những quốc gia có mật độ dân số dày đặt, nơi mà không có đủ lương thực thích hợp, quần áo mặc, những thứ cần thiết khác? Những ai tin rằng Thượng đế tạo ra mọi loài trên thế gian này không thể đưa ra một câu trả lời thoả mãn cho câu hỏi trên. Sự nghèo khó, đói khổ, bất hạnh, chiến tranh, bệnh tật, nạn đói kém không phải do vì ý chí của thần linh, Thượng đế hoặc là lòng ham muốn của quỷ thần, mà là những nguyên nhân không khó khăn lắm để phát hiện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/03/2011(Xem: 4933)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 7952)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 4317)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4473)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 5037)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4708)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3564)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 3594)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3575)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 16884)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]