Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Thay Đổi Nhãn Hiệu Tôn Giáo Trước Lúc Lâm Chung

01/01/201108:51(Xem: 7245)
14. Thay Đổi Nhãn Hiệu Tôn Giáo Trước Lúc Lâm Chung

THAY ÐỔI NHÃN HIỆU TÔN GIÁO 

TRƯỚC LÚC LÂM CHUNG

Chỉ tin rằng có một ai đó rửa sạch những tội lỗi của chúng ta mà không đè nén trạng thái tâm bất thiện của chúng ta là không thích hợp với giáo lý Ðức Phật.

Chúng ta thường hay tình cờ chứng kiến những trường hợp người ta thường hay đổi đạo vào lúc họ sắp chết. Bằng cách chấp nhận một tôn giáo khác, nhiều người thường mang một sự tin tưởng sai lầm rằng họ có thể ‘rửa sạch những tội lỗi của mình’ và dễ dàng đi lên thiên đường hơn. Họ cũng hy vọng bản thân họ sẽ được tổ chức một tang lễ đơn giản và tốt đẹp hơn vào lúc qua đời. Ðối với những ai sống trọn đời với một tôn giáo cố định nào đó, đột nhiên lại theo một tôn giáo hoàn toàn mới và không quen thuộc với họ và hy vọng được cứu rỗi ngay tức khắc thông qua niềm tin nơi tôn giáo mới này thì thực sự là một điều vô cùng cường điệu. Ðây chỉ là một giấc mơ. Thậm chí có một số người nổi tiếng là đã được đổi đạo theo một tôn giáo khác khi họ đang ở trong trạng thái hôn mơ, không ý thức và trong một vài trường hợp, thậm chí sau khi chết. Những ai quá sốt sắng, nhiệt tâm và điên cuồng về việc giáo hoá những người khác vào tôn giáo của họ, đã dẫn dắt những người thất học đi vào con đường sai lạc và buộc họ phải tin rằng tôn giáo của họ là một tôn giáo đúng đắn và chỉ có việc tin vào với một biện pháp dễ dàng hoặc là đây là một con đường tắt dễ lên thiền đường. Nếu người ta bị dẫn dắt tin rằng rằng có một ai đó đang ngồi ở một nơi nào đó có thể rửa sạch tất cả những tội lỗi mà họ đã phạm phải trong suốt quá trình sống trên cuộc đời này, thì niềm tin đó sẽ chỉ khích lệ những người khác phạm những hành động tội lỗi.

Giáo lý của Ðức Phật dạy không có một niềm tin rằng có một ai đó có thể rửa sạch tất cả những tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào con người thành thật nhận ra rằng những gì họ đang làm là không đúng và sau khi đã nhận ra điều đó, cố gắng sửa đổi và làm những điều thiện mà chúng có thể đè nén hoặc là trấn áp những hậu quả xấu đã được tích luỹ mà họ đã phạm phải trong vô lượng kiếp sống. Nó trở thành một cảnh tướng phổ biến trong nhiều bệnh viện mà chúng ta có thể chứng kiến những người truyền đạo của một số tôn giáo luẩn quẩn xung quanh những bệnh nhân hứa khả họ ‘sự sống sau khi chết’. Ðây là hành động lợi dụng sự không hiểu biết căn bản và nỗi sợ hãi về mặt tâm lý của những bệnh nhân. Nếu những người này thực sự muốn giúp đỡ, thì họ phải có thể bày tỏ những phép lạ mà họ quá tự hào cho là những phép lạ này được chứa đựng trong thánh điển của tôn giáo họ. Nếu họ có thể hiển bày những phép lạ, thì chúng ta se không cần đến bệnh viện. Người Phật tử không bao giờ trở thành những nạn nhân của những người này. Người Phật tử nên học những giáo lý cơ bản của tôn giáo thánh thiện của họ mà tôn giáo ấy dạy họ rằng tất cả những khổ đau trên cuộc đời này vận mệnh căn bản của nhân loại. Cách duy nhất để chấm dứt khổ đau là thanh tịnh tâm ý. Cá nhân con người tạo ra khổ đau cho chính mình và chính bản thân con người là người có thể chấm dứt khổ đau đó. Không một ai có thể hy vọng chấm dứt những hậu quả để lại sau những hành động tội lỗi của anh ta bằng cách thay đổi nhãn hiệu ở ngưỡng cửa của cái chết.

Số phận của người chết trong kiếp lai sinh tuỳ thuộc vào ý niệm cuối cùng hiện hữu nơi tâm thức (cận tử nghiệp) của người ấy theo ác nghiệp hay thiện nghiệp mà người ấy đã tạo tác trong kiếp sống hiện tại, không phân biệt loại nhãn hiệu tôn giáo nào anh ta thích chọn lựa cho chính mình ngay trước lúc lâm chung.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/03/2011(Xem: 4933)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 7952)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 4317)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4474)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 5037)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4708)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3564)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 3594)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3576)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 16884)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]