Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Phật Giáo Là Một Học Thuyết Hay Một Triết Lý?

01/01/201108:41(Xem: 6406)
05. Phật Giáo Là Một Học Thuyết Hay Một Triết Lý?

PHẬT GIÁO LÀ MỘT HỌC THUYẾT HAY MỘT TRIẾT LÝ?

Sự giác ngộ của Ðức Phật không phải là sản phẩm của một tri thức thuần tuý.

Xã hội Ấn Ðộ thời Ðức Phật tại thế, có nhiều người có học thức theo đuổi tri thức chỉ đơn giản phục vụ cho nhu cầu lợi ích của riêng họ. Những người này chất chứa trong họ đầy những kiến thức lý thuyết. Thực tế, một vài vị trong số họ du hành từ thành này sang thành khác thách thức mọi người tranh luận và sự cảm xúc kích động lớn nhất của họ là đánh bại đối phương trong những đợt tranh luận bằng miệng như thế. Song Ðức Phật dạy rằng những hạng người như thế thì không gần với sự giác ngộ chân lý bởi vì mặc sự thông minh sáng suốt và tri kiến của họ họ không có chân trí tuệ để điều phục tham lam, sân hận, si mê. Trong thực tế, những người này thường rất tự hào và vô minh. Những quan niệm về bản ngã của họ làm quấy nhiễu cái không khí tôn giáo.

Theo Ðức Phật, con người ta trước hết phải tìm hiểu được nguồn tâm của chính mình. Ðiều này được thực hiện thông qua sự tu tập định, mà chính nhờ định con người ta mới có được nguồn trí tuệ uyên thâm bên trong hoặc là sự giác ngộ thâm uyên. Và nguồn trí tuệ này đạt được không phải bằng con đường tranh biện triết lý hoặc là tri thức thế gian mà là bằng con đường nhận thức yên lặng về bản chất vô minh của tự ngã.

Phật giáo là một triết lý sống chân chánh nhằm mang lại một cuộc sống hòa bình va an lạc, hạnh phúc cho mỗi chúng sinh hiện hữu trên cuộc đời này. Phật giáo là một phương pháp đoạn trừ những khổ đau trong cuộc sống và tìm ra con đường giải thoát, giác ngộ. Giáo lý của Ðức Phật không chỉ hạn hẹp trong một phạm vi quốc gia hay chủng tộc nào. Ðó cũng không phải là một tín ngưỡng hay là một niềm tin suông. Ðó là một lời dạy cho toàn thể vũ trụ. Ðó là một hệ thống giáo lý dành cho tất cả mọi thời đại. Mục đích của những lời dạy ấy là nhằm phục vụ với tinh thần vị tha, vô ngã, thiện chí, hòa bình, giải thoát, tự do khỏi tất cả những khổ đau của cuộc đời.

Giải thoát, tự do trong Phật giáo là để phục vụ cho lợi ích của cá nhân. Chúng ta phải tự cứu lấy chính bản thân mình cũng như chúng ta phải ăn, uống và ngủ nghỉ cho chính bản thân. Lời khuyên được Ðức Phật đưa ra nhằm chỉ cho nhân loại con đường hướng đến sự giải thoát; chứ Ðức Phật không bao giờ dự định đưa ra những lời khuyên nhằm lấy đó xây dựng nên một hệ thống học thuyết hay là một triết lý. Khi Ngài được mọi người hỏi đến hệ thống học thuyết nào Ngài thuyết giảng, Ðức Phật đáp lại rằng Ngài không thuyết giảng bất cứ hệ thống học thuyết nào và bất cứ những điều Ngài thuyết giảng là kết quả của những kinh nghiệm mà chính bản thân Ngài đã kinh qua. Do đó, giáo lý của Ngài không đưa ra một hệ thống học thuyết nào cả. Học thuyết không thể mang con người tiến lại gần sự hoàn thiện về mặt tâm linh. Những học thuyết chính là những kiết sử trói buộc tâm thức con người và cản trở sự tiến bộ về mặt tâm linh. Ðức Phật nói: “Những bậc trí không tin vào những học thuyết đã được thông qua. Họ chỉ tin vào những gì đã kinh qua mà bản thân họ đã thấy và nghe”.

Những học thuyết là sản phẩm của tri thức và Ðức Phật hiểu được những sự hạn chế của tri thức nhân loại. Ngài dạy rằng sự giác ngộ không phải là sản phẩm của tri thức. Người ta không thể đạt được sự giải thoát bằng cách tham gia vào một khóa học cung cấp tri thức. Lời phát biểu này dường như phi lý song đó là chân lý. Giới trí thức có khuynh hướng bỏ ra nhiều thời gian quý giá của mình cho việc nghiên cứu, cho những phân tích nghiên cứu và dự kiện. Họ thường dành rất ít hoặc không có thời gian cho việc hành trì.

Một tư tưởng gia vĩ đại (một triết gia, khoa học gia, siêu hình học gia v.v...) cũng có thể hóa ra là một người tri thức ngu muội. Vị ấy có thể là một con người khổng lồ về tri thức, có khả năng cảm nhận những ý kiến một cách nhanh nhẹn và bày tỏ những cảm xúc rõ ràng. Nhưng nếu vị ấy không chú ý đến hành động của mình và những hậu quả của nó và nếu vị ấy chỉ hướng đến việc thành đạt những ham muốn và ý định của bản thân mình dù bất cứ giá nào thì lúc đó, theo Ðức Phật, vị ấy là một con người trí ngu muội, một con người cấp dưới có tri thức. Một con người như thế sẽ thực sự ngăn cản sự tiến bộ về mặt tâm linh của vị ấy.

Những lời dạy của Ðức Phật bao hàm nguồn trí tuệ thiết thực không thể bị hạn cuộc trong một học thuyết hay một triết thuyết nào bởi vì triết lý đề cập chủ yếu đến vấn đề tri thức chứ nó không quan tâm đến vấn đề chuyển dịch tri thức thành những hành động được hành trì hằng ngày trong cuộc sống.

Phật giáo chú trọng đến việc hành trì và giác ngộ. Triết gia có thể nhìn thấy những khổ đau và những thất vọng của cuộc đời song không giống như Ðức Phật, ông ta không đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm vượt qua những khổ đau của chúng ta vốn là một phần của bản chất vô thường của cuộc đời. Triết gia chỉ đẩy những tư duy của mình đến chỗ bế tắc. Triết lý thì hữu dụng bởi vì nó làm giàu và phong phú thêm sự tưởng tượng về mặt tri thức và xua tan lòng tự tin mang tính giáo điều khiến cho tâm không thể tiến bộ xa hơn nữa. Xét đến mức độ đó, Phật giáo đánh giá cao triết học, song triết học đã thất bại trong việc làm dịu đi cơn khát tâm linh.
Nên nhớ rằng mục đích chính yếu của Phật giáo là đạt được sự thanh tịnh và giác ngộ. Sự giác ngộ đánh bại sự vô minh vốn là cội nguồn của sanh tử. Tuy nhiên, sự đánh bại vô minh này không thể đạt được ngoại trừ chỉ bằng tu tập lòng can đảm tự tin của chính chúng ta. Tất cả mọi nỗ lực khác, đặc biệt những nỗ lực chỉ thiên về mặt tri thức thì không có hiệu quả. Ðây là lý do tại sao Ðức Phật kết luận: “Những câu hỏi siêu hình này không mang lại lợi ích, chúng không liên quan đến Chánh pháp; chúng không đưa đến chánh hạnh, hoặc là ly tham, hoặc là sự thanh tịnh không có các tham ái, không đưa đến sự tĩnh lặng, không đưa đến tri kiến chân thật, cũng không đưa đến trí tuệ cao hơn, Niết-bàn”. (Trung Bộ Kinh-Kinh Malunkyaputta). Trong lĩnh vực suy cứu siêu hình học, Ðức Phật quan tâm nhiều hơn đến một giáo lý chứa đựng một sự hiểu biết thiết thực về Bốn Chân Lý (Tứ Thánh Ðế) mà Ngài đã khám phá ra: đó là khổ đau là gi, nguồn gốc của khổ đau là gì, sự đoạn tận của khổ đau là gì và làm thế nào để vượt qua khổ đau và chứng đắc sự giác ngộ cuối cùng. Những chân lý này là những vấn đề thực tế phải được liễu tri hoàn toàn và chứng đắc hoàn toàn bởi những ai thực sự kinh qua sự giải thoát, giác ngộ.

Giác ngộ là sự chấm dứt, xoá sạch gốc rễ của vô minh; đó là một lý tưởng sống của người Phật tử. Hiện nay chúng ta có thể chứng kiến rõ ràng rằng sự giác ngộ không phải là một hành động mang bản chất tri thức. Thái độ chỉ suy cứu, tư biện trái ngược với sự giác ngộ và không có sự quan hệ gần gũi thân tình với cuộc sống. Ðây là lý do lý giải tại sao Ðức Phật chú trọng nhiều hơn đến kinh nghiệm cá nhân. Thiền định là một hệ thống khoa học thực tiễn để chứng minh Chân lý có được nhờ vào kinh nghiệm bản thân. Nhờ thiền định, ý chí cố gắng vượt khỏi những điều kiện mà nó đã đặt lên tự ngã và đây là sự giác ngộ của ý thức. Siêu hình học chỉ trói buộc chúng ta trong một khối tư tưởng và ngôn từ rối rắm và lộn xộn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2023(Xem: 3628)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
22/03/2023(Xem: 3407)
Năm 2011, chuyên mục này đã đưa ra một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất, dành cho tăng đoàn Phật giáo với khoa học công nghệ best practices with technology for sanghas, đến việc khám phá các mối quan hệ giữa sự thật khoa học thần kinh và Phật pháp relationship between truth, neuroscience, and the Dharma. Sau đó, chúng tôi đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn khoa học thần kinh duality in light of neuroscience, và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về sự văn minh a scientific theory of enlightenment. Bởi thắc mắc này đang đưa ra những chủ đề mới dịp đầu xuân này, có lẽ tôi nên nhấn mạnh điều gì đó.
18/03/2023(Xem: 6222)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3596)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
03/02/2023(Xem: 5455)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6174)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5233)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13419)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
14/12/2022(Xem: 2055)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18093)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567