Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Đức Phật Có Phải Là Hóa Thân Của Thần Linh, Thượng Đế?

01/01/201108:35(Xem: 6445)
02. Đức Phật Có Phải Là Hóa Thân Của Thần Linh, Thượng Đế?

ÐỨC PHẬT CÓ PHẢI LÀ SỰ HOÁ THÂN 

CỦA THẦN LINH, THƯỢNG ÐẾ?

Ðức Phật không bao giờ tuyên bố Ngài là con hay sứ giả của thần linh Thượng đế.
Ðức Phật là một chúng sanh độc nhất đã phấn đấu cho quả vị tự giác ngộ vo thượng. Không có một ai mà ngài xem như là bậc đạo sư của mình. Nhờ vào những nỗ lực cá nhân, Ngài tu tập hạnh Thập độ ba la mật: Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, trí tuệ, kiên định, từ tâm, xuất ly, chân thật và xả. Thông qua sự thanh tịnh tâm thức, ngài đã mở những cánh cửa đưa đến tất cả các tri kiến. Ngài chứng biết tất cả các pháp được biết, tu tập tất cả những pháp môn được tu tập và đoạn trừ tất cả các lậu hoặc phải được đoạn trừ. Thật vậy, trên cuộc đời này không có một bậc đạo sư nào có thể so sánh tương xứng với Ngài xét về lĩnh vực tu tập và chứng đắc quả vị.

Ngài quá đặc biệt và bức thông điệp của Ngài quá chiếu sáng đến mức độ nhiều người thắc mắc không biết Ngài là gì chứ không thắc mắc nhiều về Ngài là ai? Những câu hỏi về Ngài là ai liên quan đến danh xưng, tuổi tác, nguồn gốc xuất thân, tổ tiên v.v...trong khi đó câu hỏi Ngài là gì liên quan đến địa vị của con người mà Ngài được tôn xưng. Ngài quá ‘thần thánh’ và cảm kích đến nỗi ngay cả vào thời Ngài, có nhiều người đã toan phong Ngài lên như là thượng đế hoặc là sự hoá thân của thượng đế. Ngài không bao giờ đồng ý với sự tấn phong như thế. Trong kinh Tăng Chi Bộ, Ngài nói: “Quả thực Như Lai không phải là một thiên thần, không phải là một Càn-thát-bà, chẳng phải là quỷ thần, cũng chẳng phải là người. Hãy biết rằng Như Lai là một vị Phật”. Sau khi giác ngộ, Ðức Phật không thể được phân loại như là một chúng sanh bình thường như mọi chúng sanh khác bởi lý do Ngài đã là một vị Phật, một chủng tộc đặc biệt hoặc là một loài chúng sanh đã giác ngộ. Tất cả các Ngài đều là Phật.

Ðôi lúc chư Phật thị hiện nơi cõi đời này, song có một số người đã nhầm lẫn ý kiến cho rằng đó là một vị Phật tương tự đã được hoá thân hoặc là xuất hiện trên cõi đời này nhiều lần. Trên thực tế, không chỉ có một Ðức Phật duy nhất mà có vô lượng vô biên Ðức Phật, nếu không thì không một ai có hy vọng chứng được quả vị Phật. Người Phật tử tin rằng tất cả mọi người đều có thể thành Phật nếu vị ấy tu tập những phẩm hạnh thành tựu và có thể đoạn trừ hoàn toàn những gốc rễ của vô minh nhờ vào những nỗ lực của tự thân. Sau khi giác ngộ, tất cả chư Phật đều như nhau xét về phương diện chứng đắc và kinh nghiệm Niết-bàn.

Tại Ấn Ðộ, tín đồ của nhiều nhóm tôn giáo chính thống đã tìm đủ mọi phương cách để chỉ trích Ðức Phật bởi vì chính giáo lý khai phóng của Ngài đã cách mạng hoá xã hội Ấn Ðộ thời bấy giờ. Nhiều người xem Ngài như là kẻ thù không đội trời chung trong khi số học thức ngày càng tăng cũng như nhiều người thuộc nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội quy y tôn giáo của Ngài. Khi những người này thất bại trong sứ mệnh tiêu diệt Ngài, thì họ thay đổi chiến lược và gán cho Ngài với danh hiệu là hoá thân của một trong những vị thần linh của tôn giáo họ. Bằng cách này họ có thể hấp thụ Phật giáo vào tôn giáo của họ. Ơû một mức độ nào đó, chiến lược này có thể thành công tại Ấn Ðộ bởi vì qua nhiều thế kỷ nó đã góp phần cho việc làm suy tàn Phật giáo và hậu quả là nhổ tận gốc rễ Phật giáo khỏi mảnh đất thiêng liêng đã sinh ra Phật giáo.

Ngay cả thế giới hiện nay, có một số nhà lãnh đạo tôn giáo đã tìm mọi phương cách nhằm hấp thụ Ðức Phật vào tín ngưỡng của họ với mục đích thu hút được tín đồ Phật giáo theo đạo của họ. Lý do cơ bản khiến họ làm như vậy là vì bằng cách tuyên thuyết rằng chính Ðức Phật đã tiên đoán rằng một vị Phật khác sẽ xuất hiện trên cõi đời này và vị Phật sau cùng sẽ trở nên phổ quát hơn. Một nhóm người đã phong cho một vị đạo sư đã trú vào khoảng thời gian 600 năm sau khi Ðức Phật Cồ Ðàm nhập diệt là vị Phật sau cùng. Một nhóm khác lại cho rằng Ðức Phật tiếp theo đã đến Nhật Bản vào thế kỷ 13. Song có một nhóm khác lại tin rằng bậc sáng lập tôn giáo của họ đã xuất thân từ một dòng của những bậc đạo sư vĩ đại (như Ðức Phật Cồ Ðàm và chúa Giê su) và cho rằng bậc đạo sư đó là Ðức Phật sau cùng. Những nhóm tín đồ này khuyên giới Phật tử nên từ bỏ Ðức Phật cổ xưa của mình và nên tôn thờ một Ðức Phật được gọi là mới xuất hiện này. Mặc dầu việc họ đã đặt Ðức Phật ngang hàng với địa vị Bậc đạo sư của họ cũng là một việc làm tốt đẹp, song chúng ta cảm thấy rằng những nỗ lực nhằm thu hút người Phật tử vào tôn giáo của họ bằng cách giải thích sai lệch chân lý quả thật là một việc làm vô cùng xúc phạm.

Những kẻ cho rằng Ðức Phật mới đã ra đời rõ ràng là xuyên tạc những gì Ðức Phật đã dạy. Mặc dù Ðức Phật tiên đoán sự xuất hiện của Ðức Phật vị lai, song Ngài đã đề cập một số điều kiện cần phải được đáp ứng trước khi sự kiện này có thể xảy ra. Ðó là bản chất tự nhiên của quả vị Phật mà Ðức Phật trong tương lai sẽ không thị hiện mãi cho đến khi nào thọ mạng của Ðức Phật hiện tại vẫn còn trên thế gian này. Ngài sẽ thị hiện chỉ khi Pháp Tứ Thánh đế và Bát Chánh đạo hoàn toàn bị lãng quên. Con người sống lúc bấy giờ sẽ được hướng dẫn đúng cách để hiểu được chân lý tương tự do chư Phật trong quá khứ thuyết giảng. Chúng ta hiện đang sống trong thọ mạng của Ðức Phật Cồ Ðàm. Mặc dù giới hạnh của con người, với một số trường hợp ngoại lệ, đã bị suy đồi, Ðức Phật vị lai sẽ chỉ thị hiện ở một thời điểm không thể tính toán được khi mà loài người hoàn toàn bị lạc trên con đường đưa đến Niết-bàn và lúc mà nhân loại đang sẵn sàng chào đón Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2010(Xem: 3888)
Tôi hành thiền Vipassanà không theo cách rập khuôn một bài bản cố định, có điều kiện của các thiền sư, thiền viện hay thiền phái nổi tiếng nào, dù biết rằng những phương pháp vận dụng quy mô ấy đều đem lại lợi lạc nhất định cho rất nhiều hành giả và bản thân tôi cũng đã học hỏi từ đó rất nhiều.
07/10/2010(Xem: 10328)
Tác phẩm “Triết học có và không của Phật giáo ở Ấn Độ” mà độc giả đang cầm trên tay là tác phẩm gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong thời gian tác giả còn đang du học tại Đài Loan (Taiwan), với nội dung chủ yếu phân tích giải thích tư tưởng có(bhŒva) và không(Sènyatˆ) là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt thuyết minh về mối quan hệ thiết thân giữa hai học thuyết này. ..
06/10/2010(Xem: 3928)
Bất biến tùy duyên. Trong Tinh Hoa Triết học Phật giáo (Essentials of Buddhist Philosophy), Tuệ Sỹ dịch, Junjiro Takakusu tóm lược bốn thuyết duyên khởi sắp hạng theo thứ tự từ thời Pháp Tạng từ Nghiệp cảm duyên khởi, đến A-lại-da duyên khởi, Chân như duyên khởi, và cuối cùng, Pháp giới duyên khởi.
29/09/2010(Xem: 5820)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
29/09/2010(Xem: 8725)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 6103)
Sinh trưởng tại miền Đông Tây-Tạng vào năm 1936, Trưởng Lão Đại Sư Garchen Rinpoche thuộc giòng Drikung Kagyu là hoá thân của một vị đại thành tựu giả tên Siddha Gar vào thế kỷ 13 -- đệ tử tâm truyền của ngài Kyobpa Jigten Sumgon, vị Tổ lừng danh của giòng phái Drikung Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng. Trong thời đại Cổ Ấn, Đại Sư Garchen Rinpoche chính là hoá thân của đại thành tựu giả Thánh Thiên (Aryadeva), vị đệ tử đản sanh từ bông sen của ngài Long Thọ Bồ Tát. Vào thế kỷ thứ 7, Đại Sư Garchen Rinopche là Lonpo Gar tức vị khâm sai đại thần của Pháp vương Songsten Gampo, vị vua lừng danh trong lịch sử Tây-Tạng
28/09/2010(Xem: 5234)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
27/09/2010(Xem: 4193)
“Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa hẹn với chúng ta. Chúng có thể đến bất cứ lúc nào mà không một lời báo trước. Bởi vì cuộc sống là vô thường, nên chúng ta không biết chắc rằng chúng ta có còn sống ở sát-na kế tiếp hay không. Nếu một tai nạn xảy đến, chúng ta sẽ biến mất khỏi thế giới này ngay tức khắc. Mạng sống của chúng ta ví như hạt sương đọng lại trên đầu ngọn cỏ trong buổi sáng mùa xuân. Nó sẽ bị tan biến ngay khi ánh mặt trời ló dạng. Những ý niệm của chúng ta thay đổi rất nhanh trong từng sát-na. Thời gian rất ngắn ngủi. Nó chỉ kéo dài trong một sát-na (kṣaṇa), giống như hơi thở. Nếu chúng ta thở vào mà không thở ra, chúng ta sẽ chết”. Đấy là bài học học đầu tiên mà tôi học được từ thầy của mình cách đây 39 năm, vào cái ngày đầu tiên sau khi tôi trở thành một chú tiểu.
23/09/2010(Xem: 5032)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định. Với lời tuyên thuyết của Bồ tát Long Thọ: “Các pháp do duyên khởi nên ta nói là Không” (Trung luận, XXIV.18), đa số học giả sử dụng Không và Duyên khởi như đồng nghĩa.
22/09/2010(Xem: 6089)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567