Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Tôn Giáo Đúng Đắn

01/01/201108:49(Xem: 5742)
12. Tôn Giáo Đúng Đắn

TÔN GIÁO ÐÚNG ÐẮN

Nếu bất cứ tôn giáo chứa đựng giáo lý Tứ Thánh đế và Bát Thánh đạo, thì tô giáo đó được xem là tôn giáo đúng đắn.

Thật là một điều kho khăn cho con người tìm ra lý do tại sao có quá nhiều tôn giáo khác nhau và tôn giáo nào là tôn giáo chân thật. Tín đồ của mỗi tôn giáo đang cố gắng chứng tỏ tính ưu việt của tôn giáo họ. Sự đa dạng đã tạo ra sự không đồng bộ, nhưng trong vấn đề tôn giáo, con người đánh thách với nhau bằng sự ganh tỵ, sân hận và khinh thị. Giáo lý được tôn kính nhất của một tôn giáo này lại được cho là lố bịch đối với những tôn giáo khác. Ðể truyền bá những bức thông điệp hoà bình và mang sứ mệnh của Thượng đế, một số người đã phải viện đến những cuộc chiến tranh và vũ khí. Phải chăng họ đã làm ô danh tôn giáo? Dường như rằng có một sô tôn giáo chịu trách nhiệm đối với việc chia rẽ thay vì đoàn kết, hoà hợp nhân loại.

Ðể tìm ra một tôn giáo chân thật và thích hợp, chúng ta phải cân nhắc với một thái độ không thành kiến, thiên vị thế nào là một tôn giáo đích thực không đúng đắn? Tôn giáo hay những triết học không đúng đắn bao gồm: những người theo chủ nghĩa vật chất từ chối sự tồn tại sau khi chết; chủ nghĩa phi luân lý đạo đức phủ nhận cái thiện và cái ác, bất kỳ tôn giáo nào khẳng quyết rằng con người được cứu rỗi nhờ phép thần hoặc là bị đày đoạ cũng do thần; thuyết hữu thần tiến hoá lại cho rằng mọi sự vật được định trước và mọi người được định mệnh để đạt được sự cứu rỗi dần dần thông qua việc tin suông mà thôi.

Phật giáo là tôn giáo thoát khỏi những cơ sở không vững vàng. Phật giáo là một tôn giáo thiết thực và có thể kiểm chứng. Chân lý (pháp) của tôn giáo này được Ðức Phật kiểm chứng, được chư đệ tử Ngài xác chứng và luôn luôn chào đón, cởi mở tinh thần kiểm chứng ở bất kỳ ai muốn làm điều đó. Và ngày nay, Giáo pháp của Ðức Phật, đang được những phương pháp khảo sát khoa học nghiêm túc kiểm chứng.

Ðức Phật dạy rằng bất kỳ hình thức tôn giáo nào đều là chân thật nếu tôn giáo đó chứa đựng giáo ly Tứ Thánh đế và Bát Thánh đạo (con đường bao gồm tám ngành). Ðiều này chỉ ra rõ ràng rằng Ðức Phật không muốn thiết lập nên một hình thức tôn giáo riêng biệt. Những gì Ngài muốn là nhằm để tiết lộ Chân lý tối hậu của cuộc sống chúng ta và vũ trụ. Mặc dù Ðức Phật thuyết giảng Tứ Thánh đế và Bát Thánh đạo, song phương pháp tu tập theo các pháp này không chỉ là tài sản của riêng người Phật tử. đây là một chân lý phổ quát trong khắp vũ trụ.

Hầu hết mọi người cảm thấy cần thiết đưa ra những lời tranh luận để chứng minh giá trị pháp lý của tôn giáo mà họ đang theo. Có một sô người lại cho rằng tôn giáo của họ là tôn giáo hiện đại nhất và do đó chứa đựng chân lý. Một số cho rằng tôn giáo của họ có nhiều tín đồ nhất và do đó cũng chứa đựng chân lý. Song không một lời tranh cãi nào trong số này có giá trị để thiết lập nên sự thật của một tôn giáo. Người ta có thể phán xét giá trị của tôn giáo bằng cách chỉ sử dụng đến các giác quan và sự hiểu biết thông thường mà thôi.

Có một số tôn giáo truyền thống yêu cầu con người phải chịu quỵ luỵ trước một đấng quyền năng to lớn hơn chính bản thân con người, một đấng quyền năng điều khiển sự tạo hoá, những hành động của con người và sự giải thoát cuối cùng của anh ta. Ðức Phật không thừa nhận những đấng quyền năng như thế. Hay đúng hơn, Ngài chỉ định con người làm đấng tạo hoá, quyền năng của chính mình bằng cách khẳng định rằng mỗi người là đấng tạo hoá của chính mình, phải chịu trách nhiệm cho sự giải thoát tự thân. Ðó là lý do tại sao người ta nói rằng: “không có một ai là vô thần như Ðức Phật”. Tôn giáo của người Phật tử ban cho con người một ý nghĩa lớn lao về chân giá trị; đồng thời, tôn giáo này cũng quy cho con người những trách nhiệm to lớn vô cùng. Người Phật tử không thể đổ lỗi cho những đấng quyền năng từ bên ngoài khi mà điều xấu đến với vị ấy. Nhưng người Phật tử có thể đối diện với sự bất hạnh bằng trạng thái tâm hoan hỷ, cởi mở bởi vì anh ta biết rằng anh ta có khả năng để dập tắt tất cả những khổ đau của cuộc đời.

Một trong những nguyên nhân giải thích tại sao đạo Phật thu hút giới trí thức và những người có học thức cao là Ðức Phật không chấp nhận chư đệ tử Ngài chấp nhận một cách hấp tấp những gì họ nghe (dù là điều đó xuất phát từ bản thân Ngài) mà trước tiên không kiểm tra giá trị của nó. Những lời dạy của Ðức Phật đã tồn tại và thích hợp với thời đại bởi vì nhiều người trí thức đã thách thức mọi phương diện của những lời dạy ấy và đã đi đến kết luận rằng Ðức Phật luôn luôn thuyết giảng Chân lý không thể phủ nhận được. Trong khi những nhà tôn giáo khác đang cố gắng tìm mọi cách để ‘đánh giá lại’ những lời dạy của bậc thầy của họ dưới ánh sáng của tri thức hiện đại về Vũ trụ, giáo pháp của Ðức Phật đang được giới khoa học gia kiểm chứng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2010(Xem: 3888)
Tôi hành thiền Vipassanà không theo cách rập khuôn một bài bản cố định, có điều kiện của các thiền sư, thiền viện hay thiền phái nổi tiếng nào, dù biết rằng những phương pháp vận dụng quy mô ấy đều đem lại lợi lạc nhất định cho rất nhiều hành giả và bản thân tôi cũng đã học hỏi từ đó rất nhiều.
07/10/2010(Xem: 10323)
Tác phẩm “Triết học có và không của Phật giáo ở Ấn Độ” mà độc giả đang cầm trên tay là tác phẩm gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong thời gian tác giả còn đang du học tại Đài Loan (Taiwan), với nội dung chủ yếu phân tích giải thích tư tưởng có(bhŒva) và không(Sènyatˆ) là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt thuyết minh về mối quan hệ thiết thân giữa hai học thuyết này. ..
06/10/2010(Xem: 3928)
Bất biến tùy duyên. Trong Tinh Hoa Triết học Phật giáo (Essentials of Buddhist Philosophy), Tuệ Sỹ dịch, Junjiro Takakusu tóm lược bốn thuyết duyên khởi sắp hạng theo thứ tự từ thời Pháp Tạng từ Nghiệp cảm duyên khởi, đến A-lại-da duyên khởi, Chân như duyên khởi, và cuối cùng, Pháp giới duyên khởi.
29/09/2010(Xem: 5819)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
29/09/2010(Xem: 8721)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 6101)
Sinh trưởng tại miền Đông Tây-Tạng vào năm 1936, Trưởng Lão Đại Sư Garchen Rinpoche thuộc giòng Drikung Kagyu là hoá thân của một vị đại thành tựu giả tên Siddha Gar vào thế kỷ 13 -- đệ tử tâm truyền của ngài Kyobpa Jigten Sumgon, vị Tổ lừng danh của giòng phái Drikung Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng. Trong thời đại Cổ Ấn, Đại Sư Garchen Rinpoche chính là hoá thân của đại thành tựu giả Thánh Thiên (Aryadeva), vị đệ tử đản sanh từ bông sen của ngài Long Thọ Bồ Tát. Vào thế kỷ thứ 7, Đại Sư Garchen Rinopche là Lonpo Gar tức vị khâm sai đại thần của Pháp vương Songsten Gampo, vị vua lừng danh trong lịch sử Tây-Tạng
28/09/2010(Xem: 5233)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
27/09/2010(Xem: 4192)
“Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa hẹn với chúng ta. Chúng có thể đến bất cứ lúc nào mà không một lời báo trước. Bởi vì cuộc sống là vô thường, nên chúng ta không biết chắc rằng chúng ta có còn sống ở sát-na kế tiếp hay không. Nếu một tai nạn xảy đến, chúng ta sẽ biến mất khỏi thế giới này ngay tức khắc. Mạng sống của chúng ta ví như hạt sương đọng lại trên đầu ngọn cỏ trong buổi sáng mùa xuân. Nó sẽ bị tan biến ngay khi ánh mặt trời ló dạng. Những ý niệm của chúng ta thay đổi rất nhanh trong từng sát-na. Thời gian rất ngắn ngủi. Nó chỉ kéo dài trong một sát-na (kṣaṇa), giống như hơi thở. Nếu chúng ta thở vào mà không thở ra, chúng ta sẽ chết”. Đấy là bài học học đầu tiên mà tôi học được từ thầy của mình cách đây 39 năm, vào cái ngày đầu tiên sau khi tôi trở thành một chú tiểu.
23/09/2010(Xem: 5030)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định. Với lời tuyên thuyết của Bồ tát Long Thọ: “Các pháp do duyên khởi nên ta nói là Không” (Trung luận, XXIV.18), đa số học giả sử dụng Không và Duyên khởi như đồng nghĩa.
22/09/2010(Xem: 6088)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567