Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

V. Phẩm Phân biệt tuỳ miên

11/11/201018:01(Xem: 11514)
V. Phẩm Phân biệt tuỳ miên

V. PHẨMPHÂN BIỆT TÙY MIÊN

Nguyênnhân cảm sinh ra thế giới mê vọng có gần và có xa. Nguyênnhân gần là nghiệp như đã nói ở phẩm trên, còn nguyênnhân xa chính là tùy miênđược nói trong phẩm tùy miênnày.

Phẩmtùy miên gồm có 69 bài tụng. Tùy miênlà tên khác củaphiềnnãohay hoặc. Luận Câu-xá 20 nói: Tùy miên có bốnnghĩa: vi tế, tùy tăng, tùy tục, tùy phược.

Khicăn bổn phiền não hiện tiền vẫn khó biết rõ hành tướngcủa nó nên gọi là vi tế. Nó làm tăng thêm sự hônám trầm trệ đối với cảnh nó duyên và những tâm tươngưng với nó nên gọi là tùy tăng. Nó thường theo dõihữu tình gây ra các tội lỗi nên gọi là tùy tục.Nó thường hiện khởi trói buộc, không muốn, nó vẫn sanh,cố ngăn, nó vẫn khởi nên gọi là tùy phược.

Phẩmnày nói rộng về mười thứ tùy miên là tham, sân, si..., cũngnói đến mười thứ triền phược, sáu thứ cấu nhiễm...,Nhưng mười thứ tùy miên có sức mạnh hơn, thường theo dõiloài hữu tình làm tăng thêm sự hôn ám, trầm trệ, nên nêunó làm tên phẩm.

Toànphẩm chia ra làm hai phần chính:

1.Thể tánh tùy miên (Hoặc).
2.Ðoạn trừ tùy miên.

Xemđồ biểu dưới đây về bố cục phẩm tùy miên.

ÐỒBIỂU VỀ BỐ CỤC PHẨM TÙY MIÊN


TÙYMIÊNHOẶCTHỂCĂNBẢN HOẶC
CHIMẠT HOẶCCănbản Hoặc
Cácmôn Phân biệtƯớcsố tăng thêm
Nóivề kiến tư đoạn
Nóiriêng 5 kiến
Nóivề 4 đảo chấp
Nóivề 7, 9 mạn
Biếnhành phi biến hành.

Lậuvô lậu duyên
2thứ tùy tăng
2tánh phân biệt
Cănphi căn
Hoặchay trói và lìa trói
Hoặclìa tăng
Thứlớp khởi hoặc

3lậu, 4 lưu, 4 ách, 4 thủNêuthể
Giảithích tên
Cáckiết
Triềncấu
5triền cái
Nóivề các kiết sử
Phânbiệt triềi cấu
CÁCPHIỀN NÃO KHÁC
DỨTHOẶC4NGUYÊN NHÂN ĐỌAN
HOẶC4 THỨ ĐỐI TRỊ,
ĐOẠNHOẶC CHỨNG TỊCH DIỆT
9ĐỌAN BIẾN TRI
Ðoạn1. TỰ THỂ CỦA HOẶC

*TIẾT 1. CĂN BẢN HOẶC

Nhữngphiền não chiêu cảm quả báo mê vọng đau khổ là phiềnnão căn bản, hoặc gọi làbản hoặc: những phiềnnão tùy tùng phiền não căn bản khởi lên gọi là phiền nãochi mạt, hoặc gọi là tùy hoặc. Bản hoặc hay tùy hoặcđều thuộc loại phiền não căn bản, vì nó là gốc sanh racác loại phiền não khác.

Bảnhoặc có sáu thứ là tham, sân, si,mạn, nghi, ác kiến. Nếuchia ác kiến ra làm năm thứ là thân kiến, biên kiến, tàkiến, kiến thủ, giới cấm thủ, thì sẽ có mười căn bảnhoặc. Trong đó, nghilà tánh do dự lưng chừng, khôngnhận định rõ sự lý nhân quả về mặt mê cũng cũng nhưmặt ngộ. Thân kiếntiếng Phạn gọi là tác-ca-da-kiến,gồm ngã kiến và ngã sở kiến. Ðối với thân thể do nămuẩn hòa hiệp tạo thành, không nhận thức rõ như vậy, lạilầm chấp trong đó có một thực thể trường tồn duy nhấtchủ tể, đó gọi là ngã kiến. Ðối với những sựvật sở hữu của thân, chúng cũng toàn là giả hữu như huyễn,chẳng có tự tha gì cả, thế mà nhận lầm chúng có thậtvà thuộc về ta, đó gọi là ngã sở kiến.

Biênkiến, đã chấp có thật ngã, tất sẽ chấp sau khi chết,ngã sẽ tồn tại hoặc tiêu ma, chấp lệch lạc một bên nhưvậy gọi là biên kiến.

Tàkiến, tất cả sự thấy biết sai lệch điên đảo, đềulà tà kiến, song lối phủ nhận nhân quả chính đáng và chấpnhận nhân quả tà vạy là nặng hơn hết, tà kiến ở đâychỉ co sự phủ nhận nhân qủa ấy.

Kiếnthủ kiến,tức chấp chặt ba thứ thân kiến, biên kiến,tà kiến trên kia cho là đúng, kiến thủ kiến là đầu mốicủa sự tranh chấp, tranh đấu.

Giớicấm thủ có hai loại:

a.Không phải nhân chấp là nhân, tức chấp trì những cấm giớità vạy, như giới trâu, giới chó, cho khổ hạnh là nhân đểsanh lên cõi trời...

b.Khôngphải đạo chấp là đạo, tức tin những đạo lý không đưađến sự giải thoát, như tin tắm nước sông Hằng sẽ rửasạch phiền lụy; như Phật dạy, giới là viễn nhân đưađến Niết-bàn, định, huệ mới là cận nhân của Niết-bàn, không tin định, huê.

Kiếncónghĩa là suy tìm, so tính, lấy tâm sở huệ làm thể. Khi tâmsở huệ suy tìm đúng đắn thì gọi là chánh kiến, khi nósuy tìm sai lầm thì gọi là tà kiến.

Trongnăm ác kiến này, có ba thứ làm tự thể cho bốn món điênđảo kiến, đó là thân kiến làm tự thể cho điên đảovô ngã chấp là ngã. Biên kiến làm tự thể cho điên đảovô thường chấp là thường. Kiến thủ kiến làm tự thểcho điên đảo khổ chấp là vui, bất tịnh chấp là tịnh.

Mạntrongsáu bản hoặc nếu chia ra thì có bảy thứ:

1.Mạn,có tâm cao mạn so sánh, đối với người thua mình, tự chomình hơn; đối với người bằng mình, tự cho mình bằng.

2.Quámạn, có tâm cao mạn. Ðối với người bằng mình lạicho mình hơn; đối với người hơn mình lại cho mình bằng.

3.Mạnquá mạn, có tâm cao mạn, đối với người hơn mình lạicho mình hơn.

4.Ngãmạn, có tâm chấp ngã, ngã sở rồi sanh ra cao mạn, dươngdương tự đắc, dù không công nhiên so sánh hơn thua với người.

5.Tăngthượng mạn, chưa học, chưa tu, chưa chứng lại tự chođã học, đã tu, đã chứng.

6.Tàmạn, có tâm cao mạn. Tự thị về những kiến giải vàcách tu tập tà vạy mà khinh khi lấn lướt người khác.

7.Tyliệt mạn, có tâm cao mạn, mình thua người nhiều, lạitự cho là chỉ thua chút ít, không chịu phục tùng ngườihơn; hoặc tự mãn với chút ít học thức, đạo đức màkhông cầu tiến.

Trongmười bản hoặc, năm thứ tham, sân, si, mạn, nghi gọi lànăm độn sử, vì tánh nó trì độn, có căn rễ sâu dày khótrừ. Còn năm thứ ác kiến gọi là năm lợi sử, vì tánhnó mãnh lợi, không có căn rễ sâu dày, đễ đoạn trừ. Haithứ độn sử và lợi sử này chia lại thành mê lý hoặcvà mê sự hoặc. Mê lý là mê làm về đạo lý nhân quả,vô thường,vô ngã, tức đạo lý Tứ Diệu đế; mê sự làmê lầm tham đắm về sự tướng sắc thanh của vũ tr? vạnvật.

Mêlý hoặc cũng gọi là kiến hoặc, có hai nghĩa:

1.Hoặcđược đoạn trừ khi thấy rõ chân lý Tứ đế.
2.Kiến là suy lường, hoặc này do suy lường mà có.

Mêsự hoặc cũng gọi là tư hoặc, tu hoặc,có hai nghĩa:

1.Hoặcchỉ được đoạn trừ bởi tư duy tu tập lý Tứ đế, chứkhông phải chỉ thấy mà trừ được.
2.Hoặc do tư duy tham đắm thế gian mà có ra.

Xembiểu đồ:


BẢNHOẶC5ĐỘN SỬTham
Sân
Si
Mạn
Mêsự hoặc
Tuhoặc
Tưhoặc
NghiMêlý hoặc
Kiếnhoặc
5LỢI SỬThânkiến
Biênkiến
Tàkiến
Kiếnthủ
Giớicấm thủ
Trênđây, mê lý hoặc tức gọi là kiến hoặc, chia ra có 88 sử.Mê sự hoặc tức gọi là tư hoặc, chia ra 81 bậc (phẩm) giảithích như sau:

1.Mê lý hoặchay kiến hơặc có 88 sử, là căn cứ vào đasố phiền não ở cõi Dục, Sắc và Vô sắc mà quy định.Khi mê lý Tứ đế ở cõi Dục thì sẽ khởi ra 32 sử; mêlý Tứ đế ở cõi Sắc thì khởi ra 28 sử; mê lý Tứ đếở cõi Vô sắc thì khởi ra 28 sử.

32sử ở cõi Dục là mê lý Khổ đế khởi lên 10 sử (5 độnsử và năm lợi sử) mê lý Tập đế khởi 7 sử (trong 10 sửtrừ thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ), mê lý Diệt đếkhởi lên 7 sử (như Tập đế), mê lý Ðạo đế khởi lên8 sử (tức trong 10 sử trừ Thân kiến, biên kiến).

28sử ở cõi Sắc và Vô sắc là trong số 32 sử của cõi Dục,ở cõi Sắc trừ thêm 4 phiền não sân do mê lý Tứ đế nêncòn lại 28 sử. Ở cõi Vô sắc cũng vậy.

Cộngchung tất cả ba cõi có 88 sử do mê lý Tứ đế mà phát sinh,được tóm tắt trong bài tụng:

Khổhạ cụ nhất thiết (đủ mười sử),
Tậpdiệt các trừ tam (thân,biên, giới),
Ðạođế trừ nhị kiến (thân, biên),
Thượngnhị bất hành sân (như cõi Dục trừ sân).

2.Mê sự hoặc:hay tu hoặc có 81 phẩm (bậc). Ở đây chiaba cõi ra làm chín địa, mỗi địa có chín bậc tu hoặc. Nhưvậy, 9x 9= 81 phẩm.

CõiDục gồm chung cả năm loài: trời,người, địa ngục, ngạquỷ, súc sanh ở xen lộn thành một địa gọi là ngũ thútạp cư địa.Cõi Sắc có bốn địa là Sơ thiền, Nhịthiền, Tam thiền và Tứ thiền. Cõi Vô sắc cũng có bốn địa:Không vô biên xứ địa, Thức vô biên xứ địa, Vô sở hữuxứ địa và Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa.

Xembiểu đồ sau:


81TƯ HOẶCDỤC
(Tham,sân, si, mạn)
Ngũthú tạp cư, 9 phẩm
SẮC
(Tham,si, mạn)
Lysanh hỷ lạc, 9 phẩm
Ðịnhsanh hỷ lạc, 9 phẩm
Lyhỷ diệu lạc, 9 phẩm
Xảniệm thanh tịnh, 9 phẩm
VÔSẮC
(Tham,si, mạn)
Khôngvô biên xứ, 9 phẩm
Thứcvô biên xứ, 9 phẩm
Vôsở hữu xứ, 9 phẩm
Phitưởng phi phi tưởng xứ, 9 phẩm
Nhưvậy, tự thể của tư hoặc ở cõi Dục có bốn thứ là tham,sân, si, mạn; ở cõi sắc có ba thứ là tham, si, mạn, ở cõivô sắc cũng có ba thứ là tham, si, mạn. Cộng cả ba cõi thànhmười thứ tư hoặc, mười tư hoặc này cộng với 88 sửthuộc kiến hoặc thành 98 sử, được gọi là căn bản phiềnnão. Xem biểu đồ sau:

98SỬDỤCKHỔÐẾ, 10 sử, từ tham đến giới thủ
TẬPÐẾ, 7 sử (trừ thân, biên, giới)
DIỆTÐẾ, 7 SỬ (...nt...)
ÐẠỀẾ, 8 SỬ (trừ 2 kiến thân, biên)
TUSỞ ÐOẠN, 4 sử: tham, sân, si, mạn
Kiếnđoạn, 32

Tuđoạn, 4

36Sử
SẮCKHỔÐẾ, 9 sử (như Dục, trừ sân)
TẬPÐẾ, 6 sử (trừ sân, biên, giới)
DIỆTÐẾ, 6 sử (...nt...)
ÐẠỀẾ, 7 sử (trừ thân, biên, sân...)
TUSỞ ÐOẠN, 3 sử (trừ tham, si, mạn)
Kiếnđoạn, 28

Tuđoạn, 3

31Sử
VÔSẮCKHỔÐẾ, 9 sử (như dục, trừ sân)
TẬPÐẾ, 6 sử (trừ thân, biên, giới)
DIỆTÐẾ, 6 sử (...nt...)
ÐẠỀẾ, 7 sử (trừ thân, biên, sân...)
TUSỞ ÐOẠN, 3 sử: tham, si, mạn
Kiếnđoạn, 28

Tuđoạn, 3

31Sử
Hỏi:Trong 98 phiền não căn bản đó, bao nhiêu thuộc tánh bất thiện,bao nhiêu thuộc tánh hữu phú vô ký?

Ðáp:Các phiền não căn bản của hai cõi Sắc và Vô sắc, và thânkiến, biên kiến của cõi Dục,cùng với si tương ưng vớihai cõi này khởi lên, tất cả đều thuộc tánh hữu phú vôký. Còn lại tất cả căn bản phiền não ở cõi Dục đềuthuộc tánh bất thiện. Hai cõi trên ở trong định, tuy vẫncòn phiền não, nhưng chúng bị ép dưới định, không đủkhả năng chiêu cảm quả dị thục khổ báo, nên chúng chỉthuộc hữu phú vô ký.

Lạinữa, thân kiến, biên kiến của cõi Dục cùng phiền não sitương ưng với nó khởi lên, chỉ chấp lấy tự thân khởivọng kiến ngã, ngã sở hay chấp đoạn, chấp thường...Nókhông làm tổn hại ai nên thuộc tánh vô ký, chứ không phảibất thiện. Bởi lẽ khi chấp thân ta là thường, thì sợthân ta ngày sau chịu khổ, nên hiện tại cố gắng tu hành,trì giới, bố thí...để được sanh trong hàng trời, người,hưởng lạc. Khi chấp thân ta sẽ đoạn diệt thì tương laichính thân ta cũng không còn huống gì là của cải (ngã sở),nên cũng có thể vì thế gắng tu để được giải thoát.

Hỏi:Các hoặc thuộc tánh bất thiện, bao nhiêu thứ là bất thiệncăn, bao nhiêu thứ không phải là bất thiện căn?.

Ðáp:Bất thiện căn có ba nghĩa (Tỳ-bà-sa 11 nêu 5 nghĩa):

-Tánh chất chỉ là bất thiện.
-Phiền não căn bản.
-Làm gốc cho tất cả pháp bất thiện.

Naytrong 98 căn bản phiền não, cái được gọi là bất thiệncăn là chỉ cho tất cả tham, sân, của cõi Dục cùng phiềnnão si thuộc tánh bất thiện (không phải si thuộc hữu phúvô ký). Những phiền não khác không hội đủ ba yếu nghĩanói trên, nên không gọi là bất thiện căn.

Hỏi:Trong 98 bản hoặc, có bao nhiêu thứ chỉ tương ưng với đệlục ý thức và có bao nhiêu thứ tương ưng chung với cảsáu thức để khởi lên.

Ðáp:88 sử thuộc kiến hoặc và tất cả "mạn" thuộc tư hoặcchỉ nương nơi ý thức thứ sáu để khởi lên, còn tất cảphiền não thuộc tu sở đoạn, tức ba thứ tu hoặc tham, sân,si của cõi Dục, và tham, si của cõi Sắc và cõi Vô sắc đềunương chung cả sáu thức mà khởi lên. Nếu phân biệt vềmười bản hoặc, thì 7 thứ là 5 ác kiến cùng "nghi, mạn"chỉ nương ý thức thứ sáu mà khởi lên; còn ba thứ tham,sân, si thì nương chung cả sáu thức mà khởi lên.

Hỏi:10 bản hoặc tương ưng với 5 thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xảlà thế nào?

Ðáp:Cứ nói riêng 10 bản hoặc của cõi Dục, tất cả đều tươngưng với xả thọ; còn đối với khổ, lạc, ưu, hỷ thì sựtương ưng không đồìng. Nếu tham đối với cảnh khả ý,thì nương cả sáu thức khởi, nên tương ưng với lạc vàhỉ thọ, vì nương năm thức khởi thì có lạc thọ tươngưng, khi nương ý thức khởi thì có hỉ thọ tương ưng. Nếusân đối với cảnh bất khả ý, cũng nương cả sáu thứckhởi, nên tương ưng với khổ và ưu thọ, vì khi nương 5thức trước thì có khổ thọ tương ưng, khi nương ý thứckhởi thì có ưu thọ tương ưng. Nếu khi si đối với cảnhkhông khổ không vui, cũng nương cả 6 thức khởi, nên tươngưng với cả khổ, lạc, ưu, hỉ, thọ vì si khi nương 5 thứctrước khởi, thì tương ưng với khổ hoặc lạc thọ; khinương ý thức khởi, thì tương ưng với ưu hoặc hỷ thọ.Nếu si chỉ nương ý thức khởi tâm sầu muộn, thì chỉ tươngưng với ưu thọ. Bởi si hay do dự đối với tiền cảnh,nên sanh ưu sầu. Tà kiến chỉ nương ý thức khởi, tùy khivui hoặc buồn mà có, tương ưng với hỉ hoặc ưu thọ. Nhưkhi tạo ác nghiệp lại khởi lên tà kiến, cho rằng chẳngcó quả báo đau khổ nên không sợ, thì khi đó có hỉ thọtương ưng. Nếu khi tạo thiện nghiệp lại khởi lên tà kiến,cho rằng không có qủa báo phước đức gì, làm lành cũnguổng thôi, thì khi đó có ưu thọ tương ưng. Ngoài ra, 5 phiềnnão là mạn, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấmthủ, chỉ tương ưng với hỉ thọ, vì nó nương ý thức thứ6 khởi, chỉ vận chuyển theo tâm trạng hoan hỷ vậy.

Tómlại, căn bản hoặc là nguyên nhân gồm cả kiến hoặc vàtư hoặc. Kiến hoặc có 88 sử, tư hoặc có 81 phẩm, nhưngthật thể chung cục của tư hoặc chỉ có 10 tùy miên, đólà 5 độn sử và 5 lợi sử. Trong đó, 5 lợi sử lấy huệtâm sở làm thật thể, nên gom lại không quá sáu thứ. Sáuthứ tùy miên này thuộc vào những tâm sở nào trong 46 tâmsở. Xem đồ biểu sẽ rõ:


6TÙY MIÊN CĂN BẢNThamBấtđịnh pháp
SânĐạiphiền não địa pháp
SiĐạiphiền não địa pháp
MạnBấtđịnh pháp
NghiBấtđịnh pháp
ÁckiếnĐạiđịa pháp
*TIẾT 2: CHI MẠT HOẶC (Tùy phiền não)

Hỏi:Phiền não chi mạt như thế nào?

Ðáp:Khitạo nghiệp ác nơi thân, miệng, ý, bên trong nội thân khôngnhững khởi lên 10 căn bản hoặc như tham, sân, si,v.v... màcòn có 19 thứ chi mạt hoặc tùy tùng theo nó nổi lên, đólà:

1.Phóng dật:Tánh phóng túng, lêu lỏng, không để ý ngănngừa điều dữ, không để ý làm điều thiện.
2.Giải đãi: Tánh lười nhác không cố gắng trong việc bỏác làm lành.
3.Bất tín:Tánh uế trược không tin tưởng đạo lý nhânquả chân chánh.
4.Hôn trầm:Tánh hôn ám, trầm trệ, bất kham các việc lành.
5.Trạo cử:Tánh dao động, không điềm tĩnh đối với cảnhvật đang tiếp xúc.
6.Vôtàm:Tánh không biết tự hổ đối với những tội lỗimình đã gây, lại không biết tùy thuận, sùng kính đối vớinhững pháp công đức, như giới, định, tuệ và các bậcsư trưởng.
7.Vô quý: Tánh không biết thẹn với người khi mình gâytội lỗi, và không biết e dè, sợ hãi các điều tội lỗi,mà các bậc cao đức thường chê bai răn dạy.
8.Phẫn:Tánh nổi giận trước những sự bất bình, tổnhại, do loài vật và hoàn cảnh gây ra.
9.Phú:Tánh ưa che dấu những tội lỗưi mình làm vì sợmất danh dự.
10.Xan:Tánh keo kiệt, đắm say các tài vật và sở học cóđược không san xẻ cho người.
11.Tật:Tánh ghen ghét, chỉ muốn tài lợi, danh dự về cảcho mình, không muốn thấy người khác có.
12.Thụymiên:Tánh hôn muội uể oải.
13.Hối:Tánh hối hận những điều mình đã làm. (từ số4 đến 13 là triền).
14.Não:Tánh nóng nảy bực bội không chịu nghe theo lời candạy về các điều quấy của mình.
15.Hại:Tánh hung dữ, làm những điều bức hại, đánh mắngkẻ khác.
16.Hận:Tánh ngậm hờn kết oán đối với những việc đãlàm cho mình nổi giận.
17.Siểm:Tánh dua nịnh bợ đỡ, làm bộ tịch cúi lòn, chiềutheo ý người không kể gì phẩm giá mình.
18.Cuống:Tánh ưa làm mê hoặc dối trá người, mưu tính,bịa đặt, cách thức để lừa gạt sự hiểu biết của ngườikhác.
19.Kiêu:Tánh kiêu ngạo chấp nê những gì mình có cho làhơn cả.

(Từsố 14 -19 là cấu uế).

Trong19 thứ chi mạt hoặc này, 5 thứ phóng dật, bất tín, hôntrầm, trạo cử, giải đãi thuộc về đại phiền não địapháp. Bất cứ lúc nào, hễ tâm nhiễm ô khởi lên, thì cũngcó nó tương ưng khởi theo. Hai thứ vô tàm, vô quý thuộcloại đại bất thiện địa pháp, hễ tất cả tâm bất thiệnkhởi lên, thì đều có nó tương ưng khởi theo. 10 thứ từphẩn (số 8) đến kiêu (số 19); trừ hối và thụy miên (số12, 13) thuộc tiểu phiền não địa pháp. Hai thứ hối, miênthuộc bất định địa pháp.

19chi mạt hoặc này cũng gọi là tùy phiền não. Vì sao? Vì nótùy tùng căn bản phiền não gây não loạn thân tâm chúng sanhnên gọi là tùy phiền não.

Hỏi:10 tùy phiền não đều có mặt ở ba cõi ư?

Ðáp:Hai thứ cuống và siểm chỉ giới hạn ở cõi Dục và Sơthiền cõi Sắc; 6 thứ phóng dật, giải đãi, bất tín, hôntrầm, trạo cử, kiêu ở cả ba cõi đều có. Riêng cõi Dụcthì có đủ cả 19 thứ.

Hỏi:Phân biệt 19 thứ tùy phiền não trong ba cõi về ba tánh thiện,ác và vô ký như thế nào?

Ðáp:Tại cõi Dục, 6 thứ phóng dật, giải đãi, bất tín, hôntrầm, trạo cử và kiêu thông cả hai tánh bất thiện và hữuphú vô ký. Các thứ còn lại đều thuộc tánh bất thiện.Tại cõi Sắc 8 thứ là phóng dật, giải đãi, bất tín, hôntrầm, trạo cử, kiêu, cuống, siểm và tại cõi Vô sắc có6 thứ là phóng dật, giải đãi, bất tín, hôn trầm, trạocử, kiêu chỉ thuộc tánh hữu phú vô ký.

Hỏi:Các căn bản phiền não được đoạn trừ do kiến đạo vàtu đạo, còn tùy phiền não này được đoạn trừ như thếnào?

Ðáp:8 thứ phóng dật, bất tín, hôn trầm, giải đãi, trạo cử,vô tàm, vô quý, thùy miên được đoạn trừ do cả kiến đạovà tu đạo. Nghĩa là thứ nào tương ưng với căn bản kiếnhoặc thì được đoạn trừ bởi kiến đạo; thứ nào tươngưng với căn bản tu hoặc thì do tu đạo đoạn trừ. Còn lại11 thứ kia là những thứ tự do phát khởi, không tùy thuộcvào phiền não khác, chỉ tương ưng với vô minh thôi, nênnhững thứ này chỉ do tu đạo mới đoạn được.

Hỏi:Tâm vương có 6, từ nhãn thức đến ý thức, 19 tùy phiềnnão này, bao nhiêu thứ khởi theo ý thức, bao nhiêu thứ khởitheo cả 6 thức?

Ðáp:Có 7 thứ là phóng dật, bất tín, giải đãi, hôn trầm, trạocử, vô tàm, vô quý cùng khởi theo cả sáu thức. 12 thứ cònlại chỉ khởi theo ý thức. Tại sao vậy? Bởi 5 thứ phóngdật,bất tín, hôn trầm, giải đãi, trạo cử, thuộc đạiphiền não địa pháp, nó thông khắp tất cả nhiễm tâm, nênbất cứ một thức nào trong 6 thức khi khởi tâm ô nhiễm,thì nhất định có nó khởi theo. Còn vô tàm vô quý thuộcđại bất thiện địa pháp, nó thông khắp tất cả tâm bấtthiện, nên bất cứ khi nào tâm bất thiện khởi lên, nhấtđịnh đều có nó khởi theo. Riêng 10 thứ từ phần (số 8)đến (số 19) trừ hối, miên (số 12, 13) thuộc tiểu phiềnnão địa pháp, nó có đủ bốn tính cách:

Chỉdo tu mới đoạn được.
Chỉkhởi theo ý thức.
Chỉtương ưng với vô minh.
Riêngbiệt nhau hiện khởi.

Nhưvậy, 10 thứ này chỉ khởi lên theo ý thức. Hối và miênthuộc bất định địa pháp, hối thì dùng tâm phân biệtnhững điều đã làm, miên là tâm hôn muội giản lược, nênhai thứ này cũng chỉ khởi lên theo ý thức, chứ không khởilên theo 5 thức trước.

Hỏi:19 tùy phiền não này tương ưng với 5 thọ như thế nào?

Ðáp:Cả 19 thứ đều tương ưng với xả thọ. Nhưng đối vớikhổ thọ, lạc thọ, ưu thọ, hỷ thọ thì khác. 6 thứ phóngdật, bất tín, hôn trầm, giải đãi, vô tàm, vô quý, vì khởitheo với cả 5 thức, nên tương ưng với cả bốn thọ, khổ,lạc, ưu, hỷ. Cò 6 thứ phẫn, hận, hại, não, tật, hốivì chỉ khởi theo ý thức, nên chỉ tương ưng với ưu thọ,hỷ thọ. Vì nếu không cùng với tâm hoan hỷ mà siểm, cuống,phú miên thì tương ưng với hỷ thọ, còn khi với tâm u buồnmà siểm, cuống, phú miên thì tương ưng với ưu thọ. Riêngmột thứ xan chỉ khởi theo ý thức tâm vui thích, nên chỉtương ưng với hỷ thọ. Ðây là kể từ Nhị thiền trởxuống. Nếu ở Tam thiền chỉ tương ưng với lạc thọ, vìtại Tam thiền cả giới lẫn địa đều cao hơn, có sự hoanhỷ tột bực, nên chỉ có lạc thọ mà thôi.

PHIỀNNÃO PHÁT SANH

Hỏi:Các phiền não vừa nêu làm thế nào khởi lên được?

Ðáp:Do ba nhân duyên các phiền não phát khởi, đó làsức nhân,sức cảnh giới, và sức Gia hạnh.

1.Do sức nhân: Như trong khi khởi lên lòng tham là do hạtgiống tham sẵn có trong tâm chưa bị dứt, chưa biết khắpđủ (vị đoạn, vị biến tri). Nếu đã dứt và đã biếtđủ thì gọi là dĩ đoạn, dĩ biến tri.

2.Do cảnh giới: Tức là sự vật đối với thích hợp lòngtham hiện ra trước mắt.

3.Do gia hạnh: Tức là sự phân biệt sai lệch đối tượngsự vật (phi lý tác ý, nếu tác ý lạc thanh tịnh thì gọilà như lý tác ý).

Sứcnhân là hạt giống nhân, cảnh vật đối tượng và phi lýtác ý là duyên, tức đủ nhân duyên thì các phiền não phátsinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2017(Xem: 7990)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
01/02/2017(Xem: 4129)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
29/01/2017(Xem: 9174)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 24407)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13264)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8534)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 6432)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 4654)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 10964)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 11879)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567