Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

BỘ MẶT NGUYÊN THỦY

05/04/201310:35(Xem: 4186)
BỘ MẶT NGUYÊN THỦY
BỘ MẶT NGUYÊN THỦY
Ngọc Bảo trích dịch

“Bộ mặt nguyên thủy” là một bài giảng của Đại Đăng Quốc Sư cho hoàng hậu Hanazono. Đại Đăng Quốc Sư (1281-1337) là một trong những vị thầy sáng chói nhất của giòng Lâm Tế Nhật Bản. Ngài đã ẩn mình một thời gian, giả trang là một người ăn mày để lánh khỏi danh vọng.

“Trong những bước đầu tập thiền, tất cả chúng ta đều phải dốc lòng tập tọa thiền (ngồi thiền). Ngồi trong tư thế kiết già hay bán kiết già, đôi mắt khép hờ, để làm sao thấy được bộ mặt nguyên thủy, tức là bộ mặt sẵn có của chúng ta ngay từ trước khi được cha mẹ sinh ra. Có nghĩa là ta cảm nhận được trạng thái nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra ta, trước khi trời và đất phân ly, trước khi ta có được hình hài con người này. Khi ngồi thiền với thân tâm rỗng lặng, bộ mặt nguyên thủy sẽ hiện ra. Nó không có sắc, không có hình, rỗng không như bầu trời trong sáng trong đó không có một hình thể sắc tướng nào.

Bộ mặt nguyên thủy thực sự là không có tên, nhưng nó được gọi bằng những danh từ như là bản lai diện mục, Thượng đế, Phật tính, và chân tâm. Nó cũng giống như con người, khi mới sinh ra chưa có tên, nhưng sau đó được gọi bằng đủ thứ tên. Một ngàn bẩy trăm công án (Ko-an) hay những đề tài mà các thiền sinh tham khán, tất cả đều chỉ cốt cho họ nhận ra được bộ mặt nguyên thủy của mình. Đức Thế Tôn ngồi thiền trong suốt sáu năm nơi núi tuyết, và ngài đã giác ngộ trong một buổi sáng tinh mơ khi nhìn thấy ngôi sao mai chiếu lấp lánh trên trời, đó là ngài đã thấy được bộ mặt nguyên thủy của chính mình. Khi nói đến các vị tổ ngày xưa đã được đại ngộ, đó là họ đã thấy được bộ mặt nguyên thủy, hay còn gọi là bản lai diện mục. Nhi tổ Thiền tông Huệ Khả đứng dầm mình trong tuyết, hi sinh tự chặt mất một cánh tay của mình, cốt để cầu lấy sự giác ngộ; Lục tổ Huệ Năng đã đốn ngộ khi nghe câu kệ từ kinh Kim Cương; Linh Vân ngộ khi nhìn thấy cánh hoa đào nở, Hương Nghiêm ngộ khi nghe tiếng viên gạch rớt trên cành tre; Lâm Tế ngộ khi bị Hoàng Bá đánh, và Tozan ngộ khi nhìn thấy bóng của mình phản chiếu trên mặt nước.

Đó chính là họ đã gặp được “Người chủ đích thực”. Thân này giống như một ngôi nhà, và ngôi nhà đó phải có một người chủ. Người chủ nhà đó chính là bộ mặt nguyên thủy. Những kinh nghiệm nóng lạnh, những cảm giác thiếu thốn, hay thèm muốn --- tất cả chỉ là những vọng tưởng và không thực sự thuộc về vị chủ nhân đích thực của ngôi nhà này. Những vọng tưởng chỉ là những gì khởi phát ra sau này, chúng sẵn sàng tan đi theo từng hơi thở. Nếu để bị lôi cuốn trong những vọng tưởng đó, chúng ta sẽ tự đọa đầy trong địa ngục, quanh quẩn hóa kiếp theo sáu nẻo luân hồi. Đi sâu vào thực tập tọa thiền, ta sẽ tìm thấy được nguồn gốc của tư tưởng. Tư tưởng là một cái gì không hình không tướng, nhưng vì những chấp mê theo chúng còn tồn tại ngay cả tới sau khi chết, con người rơi vào địa ngục đau khổ, hay phải chịu muôn vàn phiền não trong thế giới vộ thường này.

Mỗi khi có tư tưởng khởi lên, ta hãy buông bỏ nó đi. Hãy chú tâm vào việc quét sạch đi những tư tưởng. Tọa thiền là quét sạch đi những tư tưởng. Khi những tư tưởng lắng xuống, bộ mặt nguyên thủy sẽ hiện ra. Những tư tưởng giống như những đám mây, khi mây tan, mặt trăng sẽ xuất hiện. Mặt trăng của chân lý vĩnh cửu, đó là bộ mặt nguyên thủy.

Phật chính là tâm ta. Cái gọi là “kiến tánh” có nghĩa là ta đã ngộ được tâm Phật của mình. Hãy không ngừng buông bỏ những tư tưởng, rồi ta sẽ thấy được tâm Phật. có thể có sự hiểu lầm rằng “kiến tánh” chỉ có thể thực hiện được khi ngồi thiền. Nhưng không phải như vậy. Yoka đại sư đã nói rằng: “Đi cũng là thiền, ngồi cũng là thiền. Nói năng hoặc im lặng, trong động hay trong tịnh, tất cả đều là thiền được. Thiền không phải chỉ là ngồi thiền và dẹp đi những tư tưởng của mình, mà Thiền chính là Giác. Dù đứng hay ngồi, hãy luôn giữ cho tư tưởng được tập trung và tỉnh giác. Và bỗng nhiên, bộ mặt nguyên thủy sẽ hiện ra với ta.”


Ngọc Bảo
(Trích dịch từ “A first Zen reader”)
(ngocbao.org)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2015(Xem: 11263)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ? I . Triết học là gì? Triết học (philosophy) là một từ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp cổ đại: philosophia ( tiếng phiên âm theo Anh văn), có nghĩa là lòng yêu mến sự hiểu biết. Nói rộng hơn, triết học là những quan niệm, tư tưởng, thái độ của một cá nhân hay một nhóm người siêu việt.
19/07/2015(Xem: 10579)
Khi còn trong phiền não trói buộc thì Chơn Như là Như Lai Tạng. Khi ra khỏi phiền não thì Chơn Như là Pháp Thân. Trong Phật Tánh Luận chữ Tạng có 3 nghĩa như sau: 1/- Chân Như lập ra 2 nghĩa: - Hòa Hiệp: sanh ra tất cả các Pháp “nhiễm”. (2)- Không Hòa Hiệp: Sanh ra tất cả Pháp “thanh tịnh”. Tất cả các Pháp Nhiễm và Thanh Tịnh đều thuộc Như Lai Tạng, tức là Thâu Nhiếp Chơn Như, gọi là Như Lai Tạng. Tức là Chân Như thâu nhiếp tất cả Pháp. Hay gọi Như Lai Tạng là tất cả Pháp cũng cùng ý nghĩa đó.
02/07/2015(Xem: 15331)
Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi. Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian - môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.
01/07/2015(Xem: 24269)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 11521)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
24/06/2015(Xem: 31405)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 9676)
Bài Tâm Kinh Bát Nhã có tất cả 7 chữ 'Không" trong đó chữ "Không Tướng" đã được đề cập, ngay ở câu văn thứ ba: "Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng..."(Xá Lợi Tử ! Tướng Không của các pháp...). Nếu hiểu 'chư pháp' (các pháp) ở đây chính là các pháp đã vừa được nêu ra ở câu văn thứ nhì ("Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị") thì các pháp này chính là Ngũ Uẩn pháp và chính câu văn kinh thứ nhì này đã khai thị về Không Tướng (và cả Không Thể) của Ngũ Uẩn.
15/06/2015(Xem: 23864)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/06/2015(Xem: 6501)
Các thuật ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
11/06/2015(Xem: 11946)
Tám Bài Kệ Chuyển Hóa Tâm và Phát Khởi Bồ Đề Tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 giảng. Thích Hạnh Tấn dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]