Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viễn Ly – Quyết Định Giải Thoát

14/02/201204:06(Xem: 3520)
Viễn Ly – Quyết Định Giải Thoát

anhnghethuat_baotoan (21)VIỄN LY – QUYẾT ĐỊNH GIẢI THOÁT
Alexander Berzin, Morelia, Mexico, October 10, 200
Tuệ Uyển chuyển ngữ - 27/1/2010

Lời người dịch:

Chúng tôi cho rằng, một người khi quyết định thực hành Đạo Phật thì trước hết là nghĩ đến viễn ly. Có phát tâm viễn ly mới thật sự là một hành giả Phật Giáo. Nếu không phát tâm viễn ly thì chúng ta thực hành Đạo Phật để làm gì? Dĩ nhiên ngày nay, người ta đã áp dụng những phương pháp thực hành của Đạo Phật trong tâm lý trị liệu, thiền quán để nâng cao sức khỏe, nhưng ngay cả việc thực tập Phật Pháp để được tái sinh trong cõi người lẫn cõi trời đều không phải là cứu kính của Phật Giáo, đó chỉ là những phương tiện nhất thời, hay đó không phải là Phật Pháp chân thật, không phải là mục tiêu tối hậu của Đạo Phật [1].

Vậy viễn ly là gì? Viễn ly hay tâm xuất ly có nghĩa là từ bỏ hay xa rời. Từ bỏ điều gì hay xa rời diều gì? Từ bỏ phiền não khổ đau hay xuất phiền não gia hoặc xa rời sinh tử luân hồi hay xuất tam giới gia.

Nếu chúng ta chỉ phát tâm viễn ly cho cá nhân mình thì gọi là thanh văn duyên giác và nếu chúng ta phát tâm viễn ly vì tất cả chúng sinh thì gọi là bồ tát đại thừa [và đi tiếp đến chỗ 'khứ lai tự tại']. Vì như Đức Đạt Lai Lạt Ma nói trong Mật thừa Tây Tạng rằng 'thoát ly sinh tử là mục tiêu chung của Đại thừa và Tiểu thừa. Nếu một người không muốn giải thoát thì không bao giờ muốn người khác giải thoát' và 'nếu một người không có tâm viễn ly chân thật thì không thể có lòng từ bi chân thành'. Vì sao, vì đối với một đạo nhân chân thật (hữu tình giác) thì không có gì trong cõi luân hồi có thể vướng bận họ, họa chăng những thứ làm vướng mắc được đó là những phiền não còn rơi rớt. Còn đối với một vị bồ tát thì còn có chi làm vướng bận họ, có chăng đó là bổn phận 'giác hữu tình' vì nếu không thì không phải là bồ tát.

Bài Viễn Ly - Quyết Tâm Giải Thoátcủa Giáo Sư Hành Giả Berzin nói chi tiết hơn về điều này.

Nam mô A Di Đà Phật
Ẩn Tâm Lộ ngày 13/01/2012
Tuệ Uyển

VIỄN LY – QUYẾT ĐỊNH GIẢI THOÁT

Định Nghĩa Và Hàm Ý

Viễn ly là một quyết định tự do khỏi không chỉ một hình thức nào đấy của khổ đau,mà cũng là khỏi nguyên nhân của nó. Nó đòi hỏi ý chí để từ bỏ khổ đau ấy và nguyên nhân của nó. Vì thế, nó đòi hỏi lòng can đảm to lớn. Nó không chỉ hướng đến nhận điều gì đấy dễ thương mà không phải trả một cái giá nào đấy.

Viễn ly cũng hàm ý niềm tin trong một sự kiện rằng nó có thể tự do khỏi khổ đau và nguyên nhân của nó. Nó không chỉ là suy nghĩ mong ước. Nó là niềm tin trong một sự kiện đúng trong toàn bộ ba phương diện.

1- Niềm tin tỉnh giác, xóa bỏ tâm thức của những cảm xúc và thái độ phiền não về những đối tượng. Vì thế, một sự viễn ly đúng đắn xóa tan tâm thức do dự, tự thương hại, và sự oán hận về việc phải từ bỏ điều tham muốn gì đấy.

2- Tin tưởng sự kiện chân thật căn cứ trên lý trí. Chúng ta cần thấu hiểu giải thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của nó là có thể như thế nào.

3- Tin tưởng sự kiện với một niềm ngưỡng mộ đối với nó. Như với hai tầng bậc của tâm bồ đề (niềm ngưỡng mộ và hai tầng bậc liên hệ), chúng ta không chỉ nguyện ước hay ý chí từ bỏ một cấp độ nào đấy của khổ đau và nguyên nhân của nó, căn cứ trên niềm tin rằng chúng ta có thể làm như thế. Chúng ta cần thật sự từ bỏ cả hai thứ, tối đa mà chúng ta có thể trong hiện tại, và để liên hệ chính mình trong những sự thực hành sẽ có thể làm cho chúng ta cuối cùng đạt đến sự tự tại khỏi chúng một cách vĩnh viễn.

Hơn thế nữa, viễn ly chân chính không giống như sự viễn ly hoàn toàn bị kích động bởi đời sống ngắn ngủi (sna-thung spu-sud-kyi nges-'byung): sự viễn ly say sưa và cuồng nhiệt đối với mọi thứ, nó căn cứ trên niềm tin mù quáng rằng nguồn gốc ngoại tại có thể cứu độ chúng ta. Nhưng nó đòi hỏi một thái độ thực tiển về sự liên hệ đến những việc làm cần mẫn. Chúng ta có thể đạt được sự nguyện ước từ những người khác, nhưng chúng ta phải thực hiện một cách kiên trì từ chính phía chúng ta.

Hơn thế nữa, chúng ta cần một thái độ thực tiển vể tiến trình xãy ra như thế nào. Hiện thực giải thoát khỏi vòng luân hồi không bao giờ là một tiến trình trơn tru như vạch một đường, với mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn mỗi ngày. Cho đến khi chúng ta tự tại vĩnh viễn, vòng luân hồi sẽ tiếp tục trồi lên sụp xuống. Khi nhìn từ một viễn tượng của thời gian lâu dài, chúng ta có thể thấy tiến trình , nhưng trên căn bản ngày qua ngày, tâm tính chúng ta sẽ tiếp tục lên đèo xuống ải.

Vì thế, chúng ta cần nguyên tắc và kiên trì để chịu đựng những khó khăn trong việc đi theo con đường tu tập của Đạo Phật, và trang bị tinh tấn (go-cha'i brtson-'grus), hoan hỉ nhẫn nại để vượt qua những lúc trồi hoặc sụp. Với niềm tin sáng suốt ủng hộ quyết định của chúng ta để được tự do, chúng ta sẽ không trở nên thất vọng hay mất tinh thần.

Hai Cấp Độ Viễn Ly Theo Tông Khách Ba

Trong Ba Phương Diện Chính Của Con Đường Giác Ngộ, Tông Khách Ba phân biệt:

1- Viễn ly giai đoạn khởi đầu mà với nó chúng ta hướng sự quan tâm chính yếu của chúng ta với việc làm lợi ích đời sống này để tạo nhân lợi ích cho đời sống tương lai (không để sa vào ba cõi địa ngục, ngã quỷ, súc sinh).

2- Viễn ly giai đoạn giữa mà với nó chúng ta hướng sự hấp dẫn chính yếu của chúng ta với việc tạo nhân lợi ích cho những đời sống tương lai để đạt đến việc giải thoát khỏi lập lại sự tái sinh không thể kiểm soát trong vòng sinh tử luân hồi.

Cấp độ thứ nhất là sự viễn ly phát triển thường lệ với những người không phải Phật tử, những người với khuynh hướng để lên thiên đàng. Cấp độ thứ hai là hoàn toàn của Đạo Phật.

Hiện Pháp Viễn Ly

Chúng ta có thể bổ sung sự phân biệt này bằng việc thêm vào cấp độ sơ bộ, “Hiện Pháp Viễn Ly”. “Hiện Pháp Viễn Ly” là việc hướng sự hấp dẫn chính yếu của chúng ta với việc tỉnh thức từng thời khắc để làm lợi ích cho những thời khắc tiếp theo đấy trong đời sống này hay những phát sinh sau đó.

Tuy thế, “Hiện Pháp Viễn Ly” chỉ có giá trị như một bộ phận của con đường Phật Giáo khi chúng ta nhìn nó chỉ đơn thuần như một viên đá đặt chân để tiến đến hai cấp độ thật sự của Phật Pháp. Để tiếp cận hai cấp độ thật sự, chúng ta cần thấu hiểu giáo huấn Phật Pháp về tái sinh một cách đúng đắn và tin tưởng chúng là thật sự, căn cứ trên lý trí. Bằng nếu không làm thế nào chúng ta có thể hành động một cách chân thành để làm lợi ích cho những đời sống tương lai hay để đạt đến giải thoát khỏi việc lập lại sự tái sinh không thể kiểm soát được?

Với Hiện Pháp viễn ly, sau đó, chúng ta nhìn vào những rắc rối hàng ngày chúng ta có trong đời sống - trong những mối liên hệ, trong việc đối phó với những khó khăn, v.v... Chúng ta cũng nhìn vào những nguyên nhân và chúng ta đang sẳn lòng từ bỏ cả hai, nhằm để cải thiện phẩm chất của cuộc sống này - và không chỉ ngay lập tức mà cũng là sau này trong cuộc sống. Đây là sự viễn ly trên một cấp độ thông thường với trị liệu tâm lý.

Song song với cấp độ này, chúng ta có thể có một kiểu mẫu Hiện Pháp viễn ly của việc đặt mình vào một phương hướng an toàn trong đời sống (sự quy y). Chúng ta đặt phương hướng an toàn trong đời sống của chúng ta của việc hành động để sống với chứng loạn thần kinh (vọng tưởng điên đảo) của chúng ta vì thể chúng chỉ có thể gây nên những rắc rối tối thiểu mà thôi. Chúng ta nhìn đến những ai những người đã đạt đến điều này, hoàn toàn hay cục bộ, như việc minh họa cung cách.

[See: "Dharma-Lite" Versus " The Real Thing" Dharma.]

Viễn Ly Tạm Thời Và Phương Hướng An Toàn(Quy Y)

Lamrim (Con đường tiệm tiến) trình bày chủ đề phương hướng an toàn hay quy y trước nhất trong dạng thức của giai đoạn viễn ly khởi đầu. Ở đấy, nó được căn cứ sự đe dọa của những sự tái sinh tệ hại và niềm tin trong sự kiện rằng Ba Ngôi Tôn Quý có thể đưa đến sự tái sinh tốt đẹp hơn. Giống như những kiểu mẫu của Hiện Pháp viễn ly, trình độ viễn ly này và sự quy y cũng chỉ là tạm thời. Chúng cũng không phải là những hình thức quyết định toàn hảo.

Pháp bảo thật sự là việc chấm dứt khổ đau và nguyên nhân của nó, và thật tâm đạo (con đường chân thật) hướng dẫn đến chỗ chấm dứt khổ đau. Tuy thế, trên trình độ khởi đầu, Pháp bảo không thật sự là Pháp bảo. Những khổ đau mà chúng ta muốn chấm dứt chỉ là khổ đau thô phù; nguyên nhân của nó chỉ là sự không tỉnh thức về hành trạng nhân quả; sự chấm dứt chỉ là tạm thời; và phương pháp là ngăn ngừa khỏi thái độ tàn phá.

Hơn thế nữa, những ai đã đạt đến điều gọi là Pháp bảo này là những người ở trong tình trạng tốt nhất của tái sinh - như cõi người và cõi trời, không phải chư Phật và không nhất thiết là cộng đồng thánh tăng nhị thừa, những bậc vô thức tính không.

Ý Nghĩa Viễn Ly Và Phương Hướng An Toàn(Quy Y)

Chỉ trên trình độ thứ hai (bậc trung) của con đường tiệm tiến lamrim chúng ta mới tìm thấy một sự định nghĩa đầy đủ của viễn ly và một sự định nghĩa trọn vẹn của phương hướng an toàn. Những đau khổ thật sự ở đây là tất cả ba loại (đau đớn, thay đổi, cùng khắp), nguyên nhân thật sự là việc không tỉnh giác về tính không, sự chấm dứt thật sự vĩnh viễn - không chỉ tạm thời nhưng tiến lên những trình độ tái sinh cao hơn hay thể trạng thiền định - và những con đường tâm thức thật sự là những tâm vô thức của tính không.

Một cách tương ứng, ở đây, chúng ta đặt ý nghĩa phương hướng an toàn trong đời sống chúng ta và hướng đến Pháp bảo thật sự của việc chấm dứt chân thật (diệt đế) và những con đường chân thật, khi hiện hữu trọn vẹn trên những sự tương tục tinh thần của chư Phật và tồn tại trên những sự tương tục của thánh giả tăng già.

[See: Identifying the Objects of Safe Direction (Refuge).]

Trình Độ Bồ Tát Của Viễn Ly Và Phương Hướng An Toàn

Trên trình độ thứ ba (bậc rốt ráo) của con đường tiệm tiến lamrim là động cơ bồ tát, những khuynh hướng viễn ly vì sự giải thoát của tất cả khỏi khổ đau luân hồi và nguyên nhân của nó - không chỉ khổ sở của đớn đau, và không chỉ khổ đau của một số chúng sinh nào đó. Nguyện ước này là cho tất chúng sinh khác hoàn toàn giải thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của nó, với lòng tin vững chắc rằng điều này là có thể, và điều này gọi là "từ bi". Từ bi là một khía cạnh của trình độ viễn ly của bồ tát.

Để mang đến khả năng để hổ trợ giải phóng tất cả chúng sinh khác, chúng ta cần những khía cạnh khác của viễn ly bồ tát. Chúng ta cần từ bỏ không chỉ những chướng ngại cảm xúc (phiền não chướng) ngăn trở sự giải thoát của chúng ta, nhưng cũng những chướng ngại nhận thức (sở tri chướng) ngăn ngại sự toàn tri. Xét cho cùng, điều này bao hàm sự thấu hiểu toàn tri toàn giác, những sự chướng ngại ngăn trở, và niềm tin vững vàng rằng có thể giải thoát chính chúng ta khỏi những chướng ngại này vĩnh viễn. Nó cùng bao hàm niềm tin vững vàng rằng tất cả mọi người có thể giải thoát chính mình mãi mãi khỏi những chướng ngại đó.

Kết Luận

Cùng với toàn bộ con đường Phật Giáo, rồi thì, chúng ta cần ý chí từ bỏ khổ đau và nguyên nhân của đau khổ. Do thế, chúng ta cần nhận ra những nguồn cội khổ đau của chúng ta, sự vị kỷ , giải đải, chấp trước, sân hận, v.v...; hãy từ bỏ chúng tối đa như chúng ta có thể ngay bây giờ; và cố gắng cố gắng sớm nhất như chúng ta có thể để giải thoát chính chúng ta khỏi chúng vĩnh viễn.

Trong mật tông tantra, chúng ta ngay cả cần sự viễn ly sâu xa hơn. Chúng ta cần ý chí từ bỏ và rồi thì buông bỏ, tối đa như có thể, những ý tưởng thông thường của chính mình (tự ngã ý tưởng) và sự đồng nhất của chúng ta với chúng. Viễn ly thực tế là một sự thực tập sâu sắc và vươn xa, từ Hiện Pháp đến tận cùng của mật tông tối thượng.

Nguyên tác: Renunciation - The Determination to Be Free
Ẩn Tâm Lộ ngày 12/01/2012
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_lamrim/intermediate_scope/renunciation_free.html?query=renunciation

Bài liên hệ:

1- Viễn ly - Quyết định giải thoát

2- Đi từ viễn ly đến từ bi

3- Giải thoát cho tất cả chúng sinh



[1]Phật giáo hướng đến mục đích giác ngộ, giải thoát - bình đẳng; chứ không phải chân thiện mỹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2015(Xem: 21364)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 18919)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
15/12/2014(Xem: 10947)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta cần Phật Giáo? Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và tín ngưỡng Phật Giáo:
11/12/2014(Xem: 5909)
Sư nói: - Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời lên chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn u tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi.
27/11/2014(Xem: 12514)
Các phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới gọi là “vũ”, tức chỉ không gian vô hạn; từ ngàn xưa đến ngày nay gọi là “trụ”, tức chỉ thời gian vô hạn. Trong triết học gọi là thế giới, tức chỉ tất cả vật chất và toàn bộ hình thức tồn tại của nó. “Vũ trụ” của Phật giáo cũng bao hàm tứ duy (đông nam tây bắc) thượng hạ, quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời dung chứa thế gian hữu tình vô lượng vô số, và khí thế gian rộng lớn mênh mông. Từ xưa đến nay, con người không ngừng thảo luận và nghiên cứu về sự tồn tại bí ẩn của vũ trụ; từ trong thần thoại của thuở hồng hoang đến sự phát hiện lần lượt của hệ thái dương, hệ ngân hà; sự biến chuyển từng ngày của khoa học khiến cho nhân loại bừng sáng và hiểu ra rằng thời gian và không gian (thời không), hữu tình, vật chất đều tự nhiên rộng lớn vô cùng, vượt xa ngoài phạm trù có thể hiểu biết của loài người.
25/11/2014(Xem: 10942)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949). Ajahn Mun và thầy của ông là Ajahn Sao (1861-1941) là những người đã tái lập "Truyền thống tu trong rừng", một phép tu thật khắc khổ và nghiêm túc, nêu cao lý tưởng của một cuộc sống khất thực không nhà của thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế. Vị đại sư Ajahn Chah - mà người Thái tôn thờ như người cha sinh ra mình - thuộc thế hệ thứ hai của truyền thống này, và vị thầy của ông không ai khác hơn là Ajahn Mun.
19/11/2014(Xem: 10862)
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình.
19/11/2014(Xem: 13472)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
16/11/2014(Xem: 15257)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
15/11/2014(Xem: 20256)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]