Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những gì chúng ta biết về Đại sư Khuông Việt

05/01/201117:48(Xem: 4724)
Những gì chúng ta biết về Đại sư Khuông Việt

khuong-vietkhuon viet dai su

Tài liệu về Đại sư Khuông Việt quá ít ỏi , hầu như chỉ bao gồm trong chuyện kể về Ngài của Thiền Uyển tập anh , Cho đến nay những hiểu biết về Ngài chỉ căn cứ vào đó , chưa có những phát hiện gì mới ngoài những diễn dịch , phát triển suy đoán , lắm khi mang tính cường điệu . . Qua bài này như một góp ý nhò nhặt , người viết mong rằng những nhận định vế Đại sư lừng danh của nước Việt bớt đi những suy diễn chung chung , thiếu dẫn chứng, chỉ mang tính cường điệu mà thiếu tính khoa học ; đồng thời nhấn mạnh đến nhiệm vụ chung của nhà nghiên cứu là tìm thêm tài liệu , chứng cứ để củng cố những luận điểm nhằm vinh danh vị Tăng thống đầu tiên của nước ta .

1-     Thiền Uyển tập anh , tài liệu gần như độc nhất về Đại Sư Khuông Việt

Phật giáo Việt Nam hưng thịnh vào đời Lý-Trần . Đây chính là thời kỳ vàng son của lịch sử nước ta trong các lĩnh vực hoạt động . Tài liệu sử sách vào thời này hẳn rất là phong phú , nhưng đã bị thất lạc , bị phá hoại và bị mang sang Trung Quốc trong thời chiếm đóng của nhà Minh , hoặc do chiến tranh loạn lạc liên miên từ đó đến nay . Hiện tại các chứng liệu lịch sử Phật giáo , Thiền học , Phật giáo Việt Nam đều căn cứ vào tài liệu gần như độc nhất là tập Thiền Uyển tập anh ( TUTA ).

Chúng ta có thể nói gì về TUTA ? Đấy là một tác phẩm ghi tiểu sử 85 thiền sư của 3 phái thiền Vô Ngôn Thông , Tỳ Ni Đa Lưu Chi , và Thảo Đường , trong đó hành trạng của phân nửa số vị được ghi chép rất sơ sài – có khi chỉ nêu tên mà thôi . TUTA được soạn xong vào thế kỷ XIV dưới đời nhà Trần ( 1225-1400 ) , có nhiều học giả cho rằng sách được khắc ván và được in ra lần đầu vào năm 1337 . Vì sách mở đầu bằng tiểu sử các thiền sư phái Vô Ngôn Thông , thay vì phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi vốn có trước , ta có thể biết rằng người viết ( hay những người viết ) TUTA thuộc phái Vô Ngôn Thông . Sự trình bày thiếu cân đối do khiếm khuyết tài liệu khiến cho tác phẩm kém phần giá trị , nhưng do kho tài liệu độc nhất còn sót lại về Thiền phái thời Lý-Trần trở về trước , nên TUTA trở thành một tài liệu vô cùng quý giá khi ta nghiên cứu lịch sử Phật giáo về Thiền Tông Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến XIV . Có nhiều học giả cho rằng TUTA đã dựa vào tài liệu từ một số sách hiện không còn nữa như Đối Chiếu Lục , Nam Tông Pháp Đồ…nhưng đấy chỉ là phỏng đoán . Về thể cách viết , ta thấy ngoài tính cách huyền thoại , TUTA chịu rất nhiều ảnh hưởng từ các Thiền điển Trung Quốc như Truyền đăng lục của Đạo Nguyên và nhiều ngữ lục khác của đời Đường .

Suốt cà chục thế kỷ bị ngoại bang xâm lấn, đô hộ, vừa phải đấu tranh chống quân thù vừa chống chỏi với thiên nhiên khắc nghiệt ; trải qua bao nhiêu mất mát, tang thương, khổ nhục ; tất cả đã hun đúc cho người Việt lòng yêu nước , ý chí phấn đấu , sức chịu đựng và niềm hy vọng mãnh liệt . Do sự kém hiểu biết về khoa học , do ý thức thiện thắng ác , người hiền được giúp đỡ , ủng hộ , người bình dân hiểu rằng mình sống trong một thế giới có thần linh , ma quỷ . Những chuyện cổ tích , thần thoại , tưởng tượng được trộn lẫn với thực tế , với các sự kiện lịch sử được truyền miệng trong dân gian đi vào trong các tác phẩm văn học , nghệ thuật , lịch sử …TUTA không thiếu những yếu tố đó . Ví dụ : Thiền Sư Cảm Thành mộng thấy thần nhân mách bảo về việc nhận chùa – Điềm lạ khi bà mẹ sinh Thiền sư Vân Phong – Đại sư Khuông Việt mộng thấy Tỳ Sa Môn Thiên Vương mách bảo là do cầu đảo đã phá được quân Tống – Chim muông trong rừng kêu khóc suốt ba tuần khi Thiền Sư Cửu Chỉ viên tịch – mẹ Thiền sư Ngộ Ấn mang thai do khỉ – Thiền sư Không Lộ nâng mình lên hư không , biết sai khiến cọp rồng – Thiền sư Tịnh Giới điều khiển được thời tiết – Thiền sư Giác Hải bay giữa hư không …và còn rất nhiều chuyện kỳ bí nữa trong TUTA . Những chi tiết như thế có hấp dẫn một số người đọc nhưng phần đông ngày nay người ta lại nghi ngờ tính chân thật của chúng và của nội dung TUTA .

II – Thiền Uyển tập anh đã ghi chép thế nào về Đại sư Khuông Việt ?

Ta hãy căn cứ vào bản in TUTA đời Lê năm 1715 hiện có . Trong đó phần nói về Đại sư Khuông Việt gồm 3 trang , cộng được 560 chữ . Nội dung nói về thân thế của Sư , việc Sư được Tỳ Sa Môn Thiên Vương báo mộng , việc Sư sai đốn cây cao 10 trượng cao vút đến mây xanh để tạc tượng thần . Việc Sư làm bài Vương Lang Quy tặng sứ giả Lý Giác , việc đối đáp với đệ tử Đa Bảo , với nội dung gồm trong số chữ ít òi nêu trên , chúng ta có những nhận xét sau đây :

1-    Tiểu sử của Ngài Khuông Việt được viết quá sơ sài , rời rạc , có chỗ mang tính hoang đường .

Tên của Ngài được ghi là Chân Lưu ( sơ danh Chân Lưu  -lúc đầu có tên Chân Lưu ) kế tiếp được ghi : Dòng dõi Ngô Thuận Đế ( Ngô Thuận Đế chi duệ ) . Ta không biết Chân Lưu là thế danh hay pháp danh của Ngài . Sử sách cũng không thấy nói gì đến Ngô Thuận Đế nhưng hãy nghĩ rằng Ngài là cháu của Ngô Quyền vốn được gọi là Tiền Ngô Vương . Sách Đại Việt sử lược , là một trong những cuốn sử lâu đời nhất của nước ta mới được tìm lại năm 1958 , không nói gì đến thân thế của Đại sư , người cháu của Ngô Quyền . Duy chỉ có cuốn Phả hệ họ Ngô Việt Nam xuất bản năm 2003 ghi rằng Đại sư tên Ngô Xương Tỷ , con trưởng của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập (!).

2- Sự việc Tỳ Sa Môn Thiên Vương , một vị thần của Ấn giáo báo mộng cho Đại sư , sự việc Ngài sai đốn cây cao vút tận mây xanh để tạc tượng thần , sự việc Ngài đến đền thờ này để cầu đảo khiến sóng gió , giao long nổi lên làm quân Tống tan vỡ quả thật khó tin , công lao chiến đấu , hy sinh của quân dân ta há có thể là không đáng kể so với phép màu do Đại sư Khuông Việt thực hiện ?

3- Bài từ Vương Lang Quy gồm 8 câu do Đại sư sáng tác để tặng Tống sứ giả Lý Giác là một bài thơ chứa chan tình cảm , TUTA lưu giữ được thật là đáng quý ; nhưng qua đó , ta có thể chắc chằn rẳng Đại sư hẳn còn rất nhiều thơ văn khác không được nhắc đến . Có ý kiến cho rằng đây là văn bản ngoại giao xưa nhất còn được giữ lại của thế giới. Thứ nhất , ta không thể xem đây là văn bản ngoại giao được vì đây chỉ là bài từ được sáng tác do cãm xúc cá nhân , không mang hình thức quốc gia . Thứ hai, thể nhạc từ là đặc biệt của Trung Quốc, ta không thể chỉ dựa vào bài thơ thể này của vài ba danh sĩ Trung Quốc để quyết  đoán bài Vương Lang Quy là bài nhạc từ xưa nhất còn giữ được .

4-  Câu chuyện đối đáp của Đại sư với đệ tử Đa Bảo : Đa Bảo hỏi về sự khởi đầu và sự chấm dứt của việc học Đạo ( đạo học chi thỉ chung ) . Câu thơ này và sự đối đáp của sư là nhằm giải mối nghi cho đệ tử qua lý Không Chânnhư của Phật giáo . Đấy là quan điểm , là giáo lý chủ đạo của Phật giáo , của Thiền ; chứ không thể chì dựa vào 4 câu kệ ngắn ngủi để tìm hiểu tư tưởng đặc biệt của Đại sư như nhiều người đã quan tâm .

III – Việc phổ biến , triển khai tài liệu về Đại sư Khuông Việt trong Thiền Uyển tập anh :

Từ 560 chữ Hán được ghi trong TUTA về Đại sư Khuông Việt , nếu được dịch ra tiếng Việt và đánh máy thì chiếm khoảng hơn một trang A4 , nhiều sách bài viết về lịch sử Việt Nam , Phật giáo , Thiền Việt Nam đã được triển khai phổ biến cho đến ngày nay .

Trước hết ta thấy phần lục biên của Việt điện u linh tập ( đã viết xong năm 1329 ) và Lĩnh nam chích quái ( đã viết xong năm 1492) có thêm chuyện Sóc Thiên Vương và có ghi theo tài liệu của TUTA ; qua đó , cả hai phần viết thêm này đều có xu hướng đồng hóa Sóc Thiên Vương với Thánh Gióng , Đại Việt sử ký ( 1272) do Lê Văn Hựu soạn được Ngô Sỹ Liên biên tập lại và viết thêm thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư ( 1479 ) có đoạn viết về Đại sư Khuông Việt , gần như chép nguyên văn của TUTA .

Phẩm chất cao đẹp , tài năng và công lao to lớn của Đại sư được nhiều tác giả gần đây triển khai mạnh mẽ . Nhất là qua các bài báo , bài tham luận ở các hội nghị , hội thảo liên hệ . Năm vừa qua nhân kỷ niệm 999 năm viên tịch của Đại sư . Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phối hợp với tạp chí Khuông Việt đã tổ chức một cuộc hội thảo về Ngài tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam ở Hà Nội vào ngày 30 / 3 / 2010 . Bài viết của L.D trên mạng Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia ngày 31 /3 /2010 giới thiệu cuộc hội thảo , trong đó có đoạn : “ Thiền sư Khuông Việt đã thống nhất và phát triển các hệ phái Phật giáo , đồng thời định hướng tư tưởng tốt đời đẹp đạo . Nhờ đó hiển vinh Phật giáo trở thành một công cụ tinh thần để xây dựng quê hương , đất nước . Cũng theo nghiên cứu của các nhà khoa học , cho đến nay , các bài thơ , kệ của Ngài vẫn là những bài học pháp môn căn bản cho Tăng Ni Phật tử ; là bài học về giáo trình tu dưỡng học tập Phật pháp , phấn đấu vì lợi ích quốc gia cho các thế hệ sau ”…và … “ các học giả cũng đề cao phẩm chất của nhà lãnh đạo tinh thần tư tưởng chính trị sâu sắc cũng như dấu ấn đậm nét của Thiền sư thông qua tác phẩm văn chương bất hủ là bài “ Vương Lang Quy ” của Thiền sư đã tặng cho sứ giả nhà Tống . Không chỉ có giá trị lớn về văn học , bài từ còn đem lại một hệ quả có tầm quan trọng ban giao đặc biệt , góp phần đẩy lui tham vọng bành trướng , chinh phạt nước Việt của giặc ngoại xâm ”.

Mỗi khi tưởng niệm về Đại sư Khuông Việt , ta không khỏi có cảm giác ấm lòng , kính mộ , cảm ơn công lao của Ngài đối với đất nước và Phật giáo Việt Nam . Tuy vậy những suy diễn phóng đại, thiếu căn cứ và rất chung chung có thể áp dụng cho bất cứ một danh nhân nào quả là hời hợt , duy ý chí , chẳng mang lại lợi ích nào ngoài sự nhàm chán. Trường hợp này vẫn thường thấy khi một tác giả ca ngợi Đại sư Khuông Việt , bảo rằng ngài đã “thống nhất các hệ phái của Phật giáo” thì quả là lời phát biểu thiếu căn cứ trong khi chỉ biết nhà sư được phong chức Tăng thống . Các hệ phái Phật giáo tại Việt nam đã có từ trước , trong thời bấy giờ và cả sau đó , thì sao gọi là thống nhất các hệ phái ? Thống nhất Phật giáo là sự nỗ lực không ngừng của các nhà lãnh đạo Phật giáo , là mong ước của chư Tăng Ni Phật tử qua các thời đại. Giác Hoàng Trần Nhân Tông khi lập Thiền phái Trúc Lâm cũng nhằm thực hiện mong ước đó , nhưng các hệ phái vẫn tồn tại độc lập . Bảo rằng : “Các bài thơ , kệ của Ngài vẫn là pháp môn tu học cho Tăng Ni , Phật tử ” thì cũng là ý chung; ta đâu có đọc được thơ kệ nào của Ngài ngoài bài Vương Lang Quy và bài kệ trao cho Đa Bảo ? Chẳng lẽ chư Tăng Ni , Phật tử đều phải dùng hai đoạn thơ ngắn ngủi kia để tu học ? Bảo rằng bài Vương Lang Quy  là “áng văn chương bất hủ ”rằng “Đại sư là nhà ngoại giao xuất sắc”, rằng “Ngài góp phần đẩy lùi tham vọng bành trướng của phương Bắc ” thì cũng quá cường điệu . Nên nhớ rằng Đại sư chỉ làm bài thơ ngắn tặng sứ Lý Giác sau một lần được vua mời tiếp sứ . Sử ghi , hễ mỗi lần thắng quân Bắc xâm lược , vua ta đều cử sứ xin cầu hòa . Năm 981 nước ta đánh tan quân Tống , năm 983 vua Lê Đại Hành sai sứ sang Trung Quốc cầu hòa ; năm 987 Lý Giác lại sang lần thứ hai , lần này Đại sư Khuông Việt mới được vua mời tiếp đón sứ . Cũng nên nhớ phương Bắc không bao giờ dứt mộng xâm lược nước ta ; chỉ vài chục năm sau , quân Tống lại sang đánh nước ta , rồi quân Nguyên ,quân Minh , quân Thanh đã gây bao đau thương tang tóc cho nước Việt . Chính sách ngoại giao hòa bảo không chỉ có ở Ngài Khuông Việt , mà ta chưa có chứng cứ để bảo rằng Ngài là nhà ngoại giao xuất sắc . Chỉ một bài thơ Vương Lang Quy của Ngài mà được ca ngợi quá mức , hẳn người ta đã quên tài thi văn của các thiền sư Việt Nam đời Đường từng được vua Đường mời sang Trung Quốc giảng kinh ; từ đó làm thơ , họa thơ để được các thi hào Trung Quốc như Thẩm Thuyên Kỳ , Giả Đảo , Trương Tịch , Dương Cự Nguyên …làm thơ tặng .

VI – Kết luận

Những hiểu biết quá ít ỏi của chúng ta về Đại sư Khuông Việt là chỉ căn cứ vào phần ghi chép về Ngài của TUTA . Chúng ta cần tìm tòi để phát hiện thêm tài liệu về Ngài . Chắc chắn là ở đâu đó , trong nước ta hoặc ở nước ngoài nhất là các văn khố Trung Quốc , Nhật Bản và các nước khác , vẫn còn những điều được lưu giữ liên quan đến Ngài

Chắc chắn chúng ta có thể khẳng định rằng Đại sư Khuông Việt là vị đạo cao đức trọng , góp phần làm hưng thịnh Phật giáo và đất nước Việt Nam . Với trí tuệ cao vời , Ngài tham gia việc nước , việc đạo . Chức vụ Tăng Thống danh hiệu Khuông Việt đại sư được vua ban cho Ngài đã nói lên điếu ấy . Khuông Việt dĩ nhiên không phải là pháp danh , pháp tự mà là một mỹ từ có nghĩa là sửa sanh chỉnh đốn , giúp đỡ , phù trợ (Khuông) cho đất nước Việt (Việt ) . Bài Vương Lang Quy của Ngài là một áng thơ hay. Sự đối đáp giải nghi cho Đa Bảo chứng tỏ Ngài có mức độ tu chứng cao vời .

Sự thiếu thốn tài liệu về Đại sư Khuông Việt không làm cho chúng ta bớt đi phần kính ngưỡng , tri ân Ngài . Chúng ta cần phải tìm thêm tài liệu về Ngài để củng cố và phát huy sự nhận biết về Ngài chứ không nên căn cứ vài trăm chữ trong TUTA để suy diễn và cường điệu về phẩm chất của Ngài

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9895)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 29002)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15695)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 9995)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7390)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5386)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13201)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12970)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17567)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35764)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]