Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 13

16/04/201312:14(Xem: 9730)
Chương 13

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 13

Các chức năng của Tâm

-ooOoo-

Mỗi tâm thực hiện chức năng riêng của nó; không có tâm nào phát sanh mà không có thực hiện một chức năng. Ví dụ, thấy và nghe là những chức năng do tâm thực hiện. Chúng ta không quen quan tâm đến sự thấy và sự nghe giống như những nhiệm vụ, bởi vì chúng ta hay cố chấp bản ngã. Nếu chúng muốn biết nhiều về những thứ tâm, chúng ta nên học các nhiệm vụ khác nhau của chúng.

Chức năng tâm đầu tiên trong kiếp sống thực hiện là chức năng tâm tái tục. Tâm tái tục được tiếp nối bởi tâm hộ kiếp. Chức năng tâm hộ kiếp là chức năng thứ hai của tâm. Tâm hộ kiếp duy trì sự liên tục trong kiếp sống. Chừng nào con người vẫn còn sống thì tâm hộ kiếp sinh và diệt trong thời gian không có tiến trình tâm tâm ngũ căn hoặc ý môn. Tâm hộ kiếp phát sanh giữa các tiến trình tâm khác nhau mà nó biết cảnh xuyên qua một trong sáu môn. Ví dụ thấy và suy nghĩ về điều mình làm phát sanh trong giữa những tiến trình tâm khác nhau và phải có những tâm hộ kiếp ở giữa những tiến trình khác nhau này.

Khi sắc pháp tiếp xúc một trong các căn thì dòng tâm hộ kiếp bị gián đoạn; có một ít tâm hộ kiếp nữa sanh và diệt, và rồi tâm khán ngũ môn phát sanh. Tâm khán ngũ môn là tâm đầu tiên trong tiến trình tâm biết cảnh sắc mà nó tiếp xúc với một trong các căn.

Tâm khán ngũ môn thực hiện chức năng chú ý đến cảnh mà nó tiếp xúc một trong năm căn; nó chú ý đến cảnh xuyên qua căn môn đó. Tâm khán ngũ môn là tâm tố vô nhân.

Thanh tịnh đạo (XIV, 107) có đề cập đến sự liên quan tâm ngũ song thức (ý giới):

Ở đây, ý giới có đặc tính làm tiền đạo cho nhãn thức... và nhận biết cảnh sắc... chức năng của nó là hướng tâm đến cảnh. Nó được biểu hiện như sự tiếp xúc của cảnh sắc.. . Nguyên nhân gần của nó là làm gián đoạn dòng hộ kiếp. Nó chỉ tương ưng với xả.

Tâm khán ngũ môn là 'tiền đạo" vì nó phát sanh trước năm thức (nhãn , nhĩ...). Khi khán ngũ môn hướng tâm đến cảnh thì nó đã tiếp xúc với nhãn căn rồi, nó hướng tâm xuyên qua nhãn môn và được gọi là tâm khán nhãn môn. Khi khán ngũ môn hướng tâm đến cảnh thì nó đã tiếp xúc với nhĩ căn và gọi là tâm kháng nhĩ môn. Tâm khán ngũ môn được đặt tên sau căn môn nhờ đó mà nó hướng đến cảnh. Tâm khán ngũ môn phát sanh nhiều lần trong một ngày, nhưng chúng ta không quan tâm đến nó. Bất cứ khi nào có tâm nhãn thức thì tâm khán nhãn môn đã hướng tâm đến cảnh sắc mà nó đã tiếp xúc với nhãn căn, và nó đã diệt. Bất cứ khi nào có tâm nhĩ thức hoặc một trong năm thức khác, tâm khán ngũ môn đã hướng đến cảnh và đã diệt rồi.

Tâm khán ngũ môn được tiếp nối do bởi những tâm khác của tiến trình căn môn mà nó biết cùng một cảnh đó. Khi tiến trình đó chấm dứt , cảnh được biết xuyên qua ý môn. Ðầu tiên có tâm hộ kiếp và sau đó tâm khán ý môn thực hiện chức năng của sự hướng đến xuyên qua ý môn.

Như vậy có hai loại tâm thực hiện chức năng của sự hướng đến (Àvajjanakicca) đó là: tâm khán ngũ môn hướng đến cảnh qua một trong năm căn và tâm khán ý môn hướng đến cảnh xuyên qua ý môn. Tâm khán ý môn là tâm tố vô nhân; nó không câu hành với những nhân bất thiện hoặc những nhân tịnh hảo. Sau khi hướng đến cảnh nó được theo sau bởi những tâm thiện hoặc những tâm bất thiện.

Khi cảnh sắc tiếp xúc với nhãn căn thì tâm khán nhãn môn hướng đến cảnh sắc xuyên qua nhãn môn. Khi tâm khán nhãn môn đã diệt nó được tiếp nối bởi tâm nhãn thức. Chức năng của sự thấy (Dassana kicca) là do tâm nhãn thức thực hiện. Thấy là kết quả của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện. Chúng ta tái sanh là để tiếp nhận những kết quả của những hành động của chúng ta: chúng ta thấy, nghe và biết các cảnh qua các căn khác.

Tâm thực hiện chức năng của nhãn thức chỉ là thấy cảnh sắc. Tâm này chưa có thích hoặc không thích, nó là một tâm quả vô nhân. Nó cũng không suy nghĩ về cảnh. Nếu người ta không phát huy chánh kiến thì người ấy không nhận thấy rằng tâm mà chỉ thấy cảnh sắc là một sự thật khác với tâm mà thích hoặc không thích cảnh sắc và khác với tâm mà chú ý đến hình thức và đặc điểm. Bởi vì vô minh và tà kiến, chúng ta không hiểu rõ sự vô thường của tâm diệt ngay khi nó phát sanh và nó được nối tiếp bởi tâm khác mà nó là một sự thật khác nữa.

Có hai loại tâm mà có thể thực hiện chức năng c?a nhãn thức: là tâm quả bất thiện và tâm quả thiện.

Khi âm thanh tiếp xúc với nhĩ căn thì tâm khán nhĩ môn sanh và diệt, tâm nhĩ thức phát sanh. Chức năng nghe (Savanakicca) là một chức năng khác của tâm. Nhĩ thức là tâm quả vô nhân. Hai loại tâm có thể thực hiện chức năng nghe là tâm quả bất thiện và tâm quả thiện.

Một chức năng của tâm khác nữa là chức năng ngửi (Ghàyanakicca). Cả hai loại tâm quả vô nhân có thể thực hiện chức năng này: là tâm quả bất thiện và tâm quả thiện.

Có hai loại tâm quả vô nhân có thể thực hiện chức năng nếm (Sayanakicca): là quả bất thiện và quả thiện. Ví dụ, khi tâm thực hiện chức năng nếm hương vị ngọt hoặc mặn, đơn thuần nó chỉ biết hương vị đó, nhưng không biết tên gọi của hương vị này. Sau đó tâm mới biết tên thường gọi của hương vị.

Chức năng biết cảnh xúc qua thân căn (Phusanakicca) là chức năng tâm khác nữa. Khi cảnh tiếp xúc với thân căn thì tâm khán ngũ môn hướng đến cảnh xuyên qua thân căn. Nó được tiếp nối bởi thân thức mà có thể thực hiện chức năng biết cảnh xúc qua thân căn. Có hai loại tâm mà có thể thực hiện chức năng này: một là quả bất thiện, hai là quả thiện. Những cảnh do tâm thân thức biết là các loại sắc sau đây:

Ðất (được biết như cứng hoặc mền)
Lửa (được biết như nóng hoặc lạnh)
Gió ( được biết như rung động và lay chuyển).

Những đối tượng trên được biết do bởi thân căn mà thường gọi là sắc pháp. Sắc pháp này có công năng tiếp nhận những cảm xúc toàn thân thể, ngoại trừ những thành phần nào không có cảm giác.

Do đó, tóm lại những chức năng do tâm thực hiện là năm thức:

Chức năng thấy
Chức năng nghe
Chức năng ngửi
Chức năng nếm
Chức năng đụng

Thấy, nghe, ngửi, nếm và đụng là những chức năng khác nhau, không phải do bản ngã thực hiện mà do tâm thức tạo tác. Những tâm này phát sanh vì những điều kiện thích ứng của chúng. Ðể cảnh tĩnh mọi người về định lý này, Ðức Phật giải thích rằng, làm thế nào tâm biết cảnh qua năm căn và qua ý môn. Ngài chỉ cho thấy những điều kiện khác nhau về sự phát sanh của tâm thức và sự vô thường của những nhân duyên này. Vì những nhân duyên phát sanh của tâm thức thì vô thường nên chúng không thường hằng.

Chúng ta xem trong Tương Ưng Bộ Kinh (IV, Salàyatanavagga, Tương ưng Xứ, Năm mươi thứ hai, chương IV, 93, cả hai II) Ðức Phật dạy cho chư Tỳ khưu rằng:

Này các Tỳ khưu, do duyên cả hai nên thức hiện hữu. Và này các Tỳ khưu thế nào là do duyên cả hai nên thức hiện hữu?

Do duyên mắt và các sắc, phát sanh nhãn thức. Mắt là vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi. Cho nên cảnh sắc cũng như vậy. Do đó cả hai này là biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi.

Nhãn thức là vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi. Do nhân duyên nào nhãn thức phát sanh, nhân duyên đó cũng vô thường ,biến hoại, trạng thái luôn thay đổi. Nhãn thức này phát sanh từ một nhân duyên vô thường, làm sao nó thường hằng được.

Bây giờ sự họp hội, tụ tập, hòa hợp với nhau của ba pháp này ,này các Tỳ khưu đây gọi là nhãn xúc. Nhãn xúc thì vô thường, biến hoại, trạng thái luôn thay đổi . Do nhân duyên nào phát sanh nhãn xúc, nhân duyên đó cũng vô thường... Nhãn xúc này phát sanh từ một nhân duyên vô thường, làm sao nó thường hằng được?

Này các Tỳ khưu, do cảm xúc nên có cảm thọ, do cảm xúc nên có hay biết, do cảm xúc nên có nhận thức. Như vậy các pháp này cũng biến động, tiêu tan, vô thường, biến hoại. Trạng thái của chúng luôn luôn thay đổi...

Các căn còn lại thì cũng tương tự như vậy.

Trong tiến trình tâm, năm thức được nối tiếp bởi tâm tiếp thu. Tâm này thực hiện chức năng tiếp nhận cảnh, nó tiếp nhận cảnh sau khi năm thức đã diệt. Tâm tiếp thu là tâm quả vô nhân. Có hai loại tâm thực hiện chức năng này: một là tâm quả thiện, hai là tâm quả bất thiện.

Nghiệp không chỉ sản sanh tâm ngũ song thức và tâm tiếp thu, nó còn sản sanh ra tâm quan sát mà tâm quan sát nối tiếp tâm tiếp thu. Tâm quan sát thực hiện chức năng quan sát cảnh trong tiến trình ngũ căn; nó là tâm quả vô nhân. Chức năng quan sát cảnh là chức năng của tâm khác nữa, nó khác biệt với thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng qua thân căn và sự tiếp thu.

Như chúng ta thấy (trong chương 9), có ba loại tâm quan sát mà có thể thực hiện chức năng quan sát:

1- Tâm quan sát quả bất thiện, câu hành thọ xả
2- Tâm quan sát quả thiện, câu hành thọ xả
3- Tâm quan sát quả thiện, câu hành thọ hỷ (khi cảnh cực kỳ tốt)

Tâm quan sát được nối tiếp bởi tâm phán đoán. Phán đoán là một chức năng tâm khác nữa; tâm phán đoán xác định cảnh trong tiến trình căn môn. Sau khi xác định cảnh nó được nối tiếp bởi tâm thiện hoặc tâm bất thiện. Tâm phán đoán không phải là quả, không phải là thiện cũng không phải là bất thiện nhưng nó là một tâm tố vô nhân. Những nhân duyên về sự phát sanh của nó thì khác với nhân đuyên đối với tâm quan sát mà nó do nghiệp sản sanh. Như chúng ta thấy (trong chương 9), Tâm thực hiện chức năng phán đoán là tâm tố vô nhân mà được người ta phân loại như tâm khán ý môn. Tâm khán ý môn thực hiện hai chức năng: trong tiến trình ý môn nó thực hiện chức năng hướng đến cảnh qua ý môn , trong tiến trình căn môn nó thực hiện chức năng phán đoán và như vậy nó được gọi là tâm phán đoán.

Tâm biết cảnh lạc hoặc cảnh bất lạc qua các căn và ý môn. Nếu người ta tích trử nhiều tâm tham và tâm sân, tâm tham căn có thể phát sanh khi cảnh lạc và những tâm sân căn có thể phát sanh khi cảnh bất lạc. Như vậy là có "phi như lý tác y" đối với cảnh. Những tâm này phát sanh vì những nhân duyên, chúng không có bản ngã và vượt ra ngoài sự kiểm soát.

Chúng ta nghĩ rằng trong tiến trình tâm, tâm quả bất thiện biết cảnh bất lạc cần phải theo sau bởi tâm bất thiện, vì chính chúng ta bị các cảnh điều khiển khi chúng ta thấy. Tuy nhiên, nếu chúng ta có "như lý tác ý" thì chúng ta không có sân hận đối với các cảnh bất lạc. Tâm thiện và tâm bất thiện phát sanh vì những nhân duyên mà nó thì hoàn toàn khác biệt với những nhân duyên cho những tâm quả. Tâm quả bất thiện và tâm quả thiện là kết quả của nghiệp. Chúng ta muốn kiểm soát tâm quả của chúng ta, nhưng điều này thì không thể được. Khi đúng thời tâm quả phát sanh, chúng ta không thể nào ngăn chận nó được. Chúng ta nên biết rằng đời sống của chúng ta chỉ là danh và sắc, chúng phát sanh vì nhân duyên và rồi diệt ngay. Nếu chúng ta thật sự hiểu rõ tâm quả: nó chỉ là một khoảnh khắc tâm diệt ngay khi nó phát sanh, chúng ta sẽ ít sân hận đối với những cảnh bất lạc khi chúng ta thấy.

Người ta có thể tự hỏi, có cần thiết để biết chi tiết về tâm và chức năng của chúng không. Chỉ biết tâm thiện và tâm bất thiện thì chưa đủ? Ngoài tâm thiện và tâm bất thiện chúng ta cũng nên biết về các loại tâm khác nữa mà chúng thực hiện những chức năng khác trong tiến trình của tâm thức và chúng phát sanh vì nhân duyên khác. Như vậy chúng ta sẽ hiểu rằng không có bản ngã mà nó có thể trực tiếp phát sanh của những tâm đặc biệt ở những hoàn cảnh đặc biệt. Không có bản ngã mà nó có thể chọn lựa để có những tâm thiện. Ngưới ta có những sự huân tập khác nhau và do đó, khi chính cảnh hiện diện thì sẽ có tiến trình tâm nhận biết nó, sự phát sanh của tâm thiện và tâm bất thiện theo sự huân tập của chúng ta. Ví dụ, khi người ta ngửi mùi thực phẩm ngon, một số người có thể có tâm bất thiện trái lại một số người khác có tâm thiện. Người mà dính mắc vào thức ăn thì có thể có tâm tham căn. Trong trường hợp người có tâm bố thí, tâm thiện có thể phát sanh khi người đó ngửi thức ăn; người ấy có thể muốn cúng dường thức ăn đến chư Tỳ khưu. Một trường hợp khác nữa, ví dụ, chúng ta có tâm thiện tương ưng với trí tuệ nhận biết mùi vị, nó chỉ như là một loại sắc pháp, không có điều gì khác, chúng vô thường và không có bản ngã.

Qua sự nghiên cứu về Giáo pháp và vượt trên tất cả qua sự phát huy "tuệ quán", chánh kiến về những sự thật, có thể trợ duyên cho những tâm thiện và như vậy là có "như lý tác ý" đối với cảnh. Bất kể là cảnh lạc hay bất lạc, trong tiến trình căn môn tâm phân đoán có thể được nối tiếp bởi tâm thiện và trong tiến trình ý môn sau khi tâm khán ý môn hướng đến cảnh, nó có thể được nối tiếp bởi tâm thiện. Nếu có thể "như lý tác ý" ở thời điểm này sẽ có nhiều nhân duyên cho "như lý tác ý" trong tương lai.

Tâm thiện và tâm bất thiện thì nhất định phát sanh bởi vì chúng ta đã huân tập cả thiện lẫn bất thiện. Ngưới ta có khuynh hướng đổ lỗi cho thế gian về sự phát sanh phiền não của họ bởi vì họ không biết rằng phiền não được huân tập trong tâm; phiền não không ở trong những đối tượng chung quanh của chính chúng ta. Người ta có thể muốn không có sáu môn để không có phiền não. Tuy nhiên, con đường duy nhất để đoạn trừ phiền não là: biết những sự thật mà chúng xuất hiện xuyên qua sáu môn. Chúng ta xem trong Tương Ưng Bộ Kinh(IV, Salàyatanavagga, Tương ưng Xứ, Năm mươi thứ tư, chương III, 194, ngọn lửa cháy) Ðức Phật dạy cho chu Tỳ khưu rằng:

Này các Tỳ khưu, ta sẽ giảng cho các ông một pháp môn lửa cháy, một pháp môn chánh pháp. Hãy lắng nghe. Và này các Tỳ khưu, pháp môn đó là gì?

Thật tốt đẹp, này các Tỳ khưu, nếu nhãn căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắt nung đỏ, cháy hừng, rực sáng, cháy mạnh mẽ. Như vậy không có chấp tướng riêng, tướng chung đối với các sắc do mắt nhận biết. Thức có thể an trú, kiên định, bị trói buộc bởi vị ngọt, tướng chung hay tướng riêng. Trong thời điểm ấy, nếu thân hoại mạng chung, thời sự việc nầy sẽ xảy ra: sẽ tái sanh vào một trong hai cõi này, địa ngục hoặc bàng sanh. Thấy được nguy hiểm này, náy các Tỳ khưu, Như Lai tuyên thuyết như vậy.

Này các thầy Tỳ khưu, thật là tốt đẹp, nếu nhĩ căn bị hủy hoại với một cái dùi bằng sắt nung đỏ... nếu tỷ căn bị hủy hoại với một cái kềm sắc bén hừng cháy... nếu thiệt căn bị hủy hoại với một con dao sắc bén hừng cháy ... nếu thân căn bị hủy hoại với một cây kiếm sắc bén hừng cháy...

Này các Tỳ khưu, do thấy sự nguy hiểm này Như Lai tuyên thuyết như vầy, thật tốt đẹp hơn khi nằm ngủ. Việc nằm ngủ Như Lai nói rằng là sự rỗng không đối với các loài có sinh mạng. Như Lai nói rằng là không có kết quả đối vối các loài có mạng sống. Như Lai nói rằng là u mê đối với các loài có mạng sống. Vì rằng (nếu ngủ), người ta không có suy nghĩ những điều có thể bị tư duy chinh phục để người đó có thể phá hòa hợp của Tăng già.

Ở đây, này các Tỳ khưu, vị thánh thinh văn suy nghĩ như sau: "Hãy dừng lại, chớ để nhãn căn bị hủy hoại với một cây kim bằng sắc nung đỏ, hừng cháy, rực sáng, cháy mạnh mẽ. Vị ấy tác ý như sau: mắt là vô thường, các sắc là vô thường, nhãn thức là vô thường, nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, cảm thọ ấy là vô thường..."

Thấy như vậy, vị thánh thinh văn nhàm chán đối vối mắt, cảnh sắc, nhãn thức, nhãn xúc. Vị ấy nhàm chán đối với lạc , bất lạc và thọ xả phát sanh đối với nhãn xúc... Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát vị ấy nhận biết rằng: "sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"

Này các thầy Tỳ khưu, đây là bài thuyết pháp về ngọn lửa cháy.

Bài kinh này nhắc nhở chúng ta rằng hãy chánh niệm mọi lúc, khi chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng qua các căn và ý môn. Tất cả những điều trên là những chức năng do bởi các tâm khác nhau thực hiện mà chúng thì không tồn tại.

CÂU HỎI:

1/- Tâm gì trong tiến trình căn môn xác định cảnh trước khi nó được nối tiếp bởi tâm bất thiện hoặc tâm thiện? Tâm này câu hành với nhân hay vô nhân?
2/- Tâm nào trong tiến trình ý môn đi trước tâm thiện hoặc tâm bất thiện phát sanh trong tiến trình đó? Chức năng của nó là gì?
3/- Tâm gì trong tiến trình ý môn đi trước tâm thiện hoặc tâm bất thiện là tâm đầu tiên trong tiến trình đó biết cảnh?
4/- Tâm này có thể câu hành với trí tuệ không?
5/- Âm thanh được biết xuyên qua nhĩ môn và ý môn. Âm thanh đã diệt khi nó được biết qua ý môn không?
6/- Có bao nhiêu loại tâm có thể thực hiện chức năng hướng đến cảnh?

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2022(Xem: 36568)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 25318)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21217)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13383)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 14924)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15074)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17740)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16740)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5030)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21080)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]