Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3

16/04/201312:04(Xem: 9717)
Chương 3

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 3

Những khía cạnh khác nhau của Tâm

-ooOoo-

Lời dạy của Ðức Phật là chân lý. Những gì Ngài dạy có thể được chứng minh qua kinh nghiệm của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thật sự không biết hầu hết những sự thật thông thường về đời sống hằng ngày: Danh pháp và Sắc pháp xuất hiện do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Dường như phần lớn chúng ta quan tâm đến quá khứ hay tương lai. Tuy vậy, chúng ta sẽ khám phá sự thật của đời sống là gì, nếu chúng ta biết nhiều về những sự thật của giây phút hiện tại, và chúng ta học cách nhận biết chúng khi chúng xuất hiện.

Ðức Phật giải thích tâm là sự thật. Chúng ta có thể hoài nghi có phải tâm là sự thật chăng? Làm thế nào chúng ta có thể chứng minh rằng có tâm? Nó có thể chỉ có sắc pháp mà không có danh pháp? Có nhiều điều trong đời sống mà chúng ta cho là tự nhiên như nhà cửa, bữa ăn, quần áo, hoặc những dụng cụ chúng ta dùng mỗi ngày. Những điều này không tự xuất hiện. Chúng được tạo ra do tâm suy nghĩ. Tâm là danh pháp; nó biết cảnh. Tâm không giống như sắc pháp vì sắc pháp thì không biết cảnh. Chúng ta nghe nhạc, mà nó được viết do người sáng tác. Chính tâm có ý tưởng phổ thành nhạc. Chính tâm sai khiến người sáng tác. Tay của người sáng tác không thể viết mà không có tâm.

Tâm có thể đạt được nhiều kết quả khác nhau, chúng ta xem trong bộ Chú Giải Pháp Tụ(Atthasàlinì) cuốn sách đ?u tiên của bộ Vi Diệu Pháp, cuốn I, phần II, 64.

Trong hành động làm tâm có thể sinh ra nhiều kết quả? Không có nghệ thuật nào trên thế gian đa dạng hơn nghệ thuật hội họa. Trong hội họa, tác phẩm kiệt tác của họa sĩ thì đẹp hơn những bức tranh còn lại của ông ta. Một mẫu vẽ đẹp nẩy sinh đến người họa sĩ như thế thì tác phẩm kiệt tác được ông ta vẽ theo cách đó. Do tâm sinh nên có mẫu vẽ đẹp, muốn hoàn thành công việc phát họa này, phải trải qua những giai đoạn như sơn, thiết kế và tô điểm ... Như vậy, tất cả những loại nghệ thuật trên thế gian, chung hoặc riêng đều thành tựu do tâm. Vì khả năng tâm sản sinh nhiều kết quả trong hành động như vậy, nên tâm thành tựu tất cả những nghệ thuật này. Chính tâm là nghệ thuật mà nghệ thuật là tâm. Nói cho đúng hơn, cả tâm còn đẹp hơn nghệ thuật nữa, vì không có tâm thì không thực hiện mẫu vẽ đẹp hoàn hảo được. Vì lý do đó Ðức Thế Tôn dạy: "Này chư Tỳ khưu, các thầy có thấy tác phẩm kiệt tác của hội họa không?" "Thưa Thế Tôn, chúng con thấy." "Này chư Tỳ khưu, tác phẩm nghệ thuật đó do tâm tạo. Này chư Tỳ khưu, thật vậy, thậm chí tâm còn đẹp hơn tác phẩm kiệt tác đó." (Tương Ưng , III, 151)

Như vậy chúng ta có thể xem nhiều điều khác nhau do tâm tạo tác: những hành động thiện như bố thí, những hành động bất thiện như hung ác và gian tham do tâm tạo tác và những hành động này tạo nên những kết quả khác nhau. Không chỉ có một loại tâm mà còn có nhiều loại tâm khác nữa.

Có nhiều hạng người khác nhau hành động một cách khác biệt điều mà họ suy nghĩ, như vậy những loại tâm khác nhau phát sinh. Có điều người này thích, người khác không thích. Chúng ta có thể chú ý những người khác nhau là thế nào khi họ hành động và sản sinh điều gì. Thậm chí khi hai người dự định làm một điều gì giống nhau mà kết quả thì hoàn toàn khác nhau. Ví dụ khi hai người vẽ một cành cây giống nhau, nhưng bức hội họa thì hoàn toàn không giống nhau. Con người có những tài năng và tư cách khác nhau; có một số người việc học tập thì rất thuận lợi, còn một số khác thì việc học gặp nhiều khó khăn. Tâm thì vượt trên sự kiểm soát; mỗi loại tâm phát sinh thì có những điều kiện riêng biệt.

Tại sao con người có quá nhiều sự khác nhau? Lý do là họ có những kinh nghiệm sống khác nhau và cho nên họ tích lũy những sở thích khác nhau. Khi một em bé được dạy những đức tính bao dung lúc còn nhỏ thì chắc chắn em sẽ có hạt giống bố thí trong tương lai. Người giận dữ thì huân tập nhiều sân hận. Tất cả chúng ta đã huân tập những sở thích, năng khiếu và kinh nghiệm khác nhau.

Mỗi tâm sinh diệt hoàn toàn thì tiếp tục một tâm khác phát sinh. Làm thế nào có thể huân tập được kinh nghiệm sống và huân tập hành động thiện ác? Lý do là mỗi tâm diệt tiếp theo là tâm khác sinh. Ðời sống chúng ta là một chuỗi tâm không gián đoạn và mỗi tâm trợ duyên cho tâm sau và tâm này trợ duyên cho tâm kế nữa, và như vậy quá khứ có thể trợ duyên cho hiện tại. Ðiều thực tế là tâm thiện và tâm bất thiện của chúng ta trong quá khứ trợ duyên cho hành động cho chúng ta ngày hôm nay. Như vậy hành động thiện và bất thiện đã được huân tập.

Tất cả chúng ta đã huân tập nhiều hành động ô nhiễm và phiền não. Ví dụ phiền não là tham, sân, si. Ðây là những mức độ khác nhau của phiền não: những phiền não vi tế, phiền não bậc trung và phiền não thô. Những phiền não không xuất hiện trong tâm, nhưng chúng là những khuynh hướng tiềm ẩn đã được huân tập và ngủ ngầm trong tâm. Khi chúng ta ngủ không mơ mộng, không có những tâm bất thiện, nhưng có những khuynh hướng tiềm ẩn bất thiện. Khi chúng ta thức dậy thì những tâm bất thiện xuất hiện trở lại. Nếu không có tâm bất thiện ngủ ngầm thì làm sao chúng có thể xuất hiện được? Ngay khi tâm thiện phát sinh vẫn có tâm bất thiện ngủ ngầm chừng nào chúng chưa được diệt trừ bằng trí tuệ. Phiền não bậc trung thì khác với phiền não vi tế bởi vì nó phát sinh cùng với tâm. Phiền não bậc trung phát sinh cùng với tâm bất thiện đã có nguồn gốc tham, sân, si. Ví dụ phiền não bậc trung là tham đắm vào điều gì mà người ta thấy, nghe hoặc suy nghĩ do thân căn, hoặc là sân hận với những đối tượng mà mình không thích. Phiền não bậc trung thì không thúc đẩy tạo những ác nghiệp. Phiền não thô thúc đẩy nghiệp bất thiện do thân, khẩu, ý như sát sinh, trộm cắp. Thực ra tác ý là nghiệp; nó có thể thúc đẩy hành động thiện và hành động ác. Nghiệp là danh pháp và do đó nó được huân tập hành động. Người ta tạo tác những phiền não và nghiệp khác nhau.

Những loại nghiệp khác nhau là điều kiện cho những kết quả khác trong đời sống. Ðây là định luật nghiệp quả. Chúng ta thấy rằng con người được sinh ra trong những hoàn cảnh khác nhau. Một số người sống thuận lợi và có nhiều hạnh phúc trong đời sống. Một số khác có đời sống bất hạnh; họ nghèo hoặc đau khổ vì bịnh hoạn. Khi chúng ta nghe về những em bé, chúng khổ vì thiếu ăn, chúng ta tự hỏi tại sao những em bé này phải chịu đau khổ trong khi những em bé khác có đầy đũ những nhu cầu cần thiết. Ðức Phật dạy rằng, mọi người có những kết quả của những hành động riêng mình. Nghiệp trong quá khứ có thể mang lại kết quả sau này, bởi vì người ta đã tạo nghiệp thiện và bất thiện. Khi nhân duyên đầy đủ thì nó trổ quả. Khi danh từ "quả" được sử dụng, người ta có thể nghĩ hậu quả của những hành động cho người khác, nhưng quả trong nghĩa dị thục có một ý nghĩa khác. Tâm dị thục quả là tâm biết cảnh xấu hoặc tốt và tâm này là kết quả của một hành động mà chính chúng ta đã tạo. Chúng ta quen suy nghĩ về bản ngã mà bản ngã thì biết cảnh tốt xấu. Tuy nhiên, không có bản ngã, chỉ có tâm biết cảnh khác nhau thôi. Một số tâm là nhân; chúng có thể tạo những hành động thiện ác có khả năng trổ quả tương xứng. Một số tâm là Dị thục quả. Khi chúng ta thấy điều gì bất lạc, nó không phải là ngã kiến; nó là tâm nhãn thức mà là quả của nghiệp bất thiện chúng ta đã tạo nó trong đời sống này và trong kiếp quá khứ. Loại tâm này là dị thục quả bất thiện. Khi chúng ta thấy điều gì lạc, đó là tâm dị thục quả thiện, kết quả của hành động thiện mà chúng ta đã tạo. Mỗi lúc chúng ta biết một cảnh bất lạc do một trong năm căn, đó là dị thục quả bất thiện. Mỗi khi chúng ta biết một cảnh lạc do một trong năm căn, đó là dị thục quả thiện.

Nếu một ai bị người khác đánh, sự đau khổ không phải là quả của hành động do người khác đánh. Một người bị đánh là do nhận kết quả của nghiệp bất thiện mà chính anh ta đã tạo; đối với người này đây là dị thục quả bất thiện do thân căn. Hành động của người đánh là do nguyên nhân tương ứng cho kết quả đau khổ của anh ta. Ðối với người đánh đã tạo nghiệp ác, là do tâm bất thiện thúc đẩy anh ta hành động. Dù sớm hay muộn anh ta sẽ nhận kết quả của hành động bất thiện đó. Khi chúng ta có sự hiểu biết đúng đắng về nghiệp quả, chúng ta sẽ thấy nhiều sự kiện trong đời sống của chúng ta rõ ràng hơn.

Chú giải bộ Pháp Tụ(quyển I, phần hai, 65) có giải thích rằng nghiệp khác nhau tạo những quả khác nhau trong vòng sinh tử luân hồi. Thậm chí những đặc điểm của thân là kết quả của nghiệp. Chúng ta xem:

...do duyên khác nhau của nghiệp, phát sinh sự khác nhau định nghiệp của chúng sinh như loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, hữu hình, vô hình, hữu tưởng, vô tưởng, phi tưởng phi phi tưởng. Do duyên khác nhau của nghiệp, phát sinh sự khác nhau trong kiếp sống của chúng sanh như cao sang và thấp hèn, thiện và bất thiện, hạnh phúc và đau khổ. Do duyên khác nhau của nghiệp, phát sinh sự khác nhau những đặc tính cá biệt của chúng sinh như đẹp hay xấu, dòng họ cao sang hay thấp hèn, mạnh khỏe hay đau yếu. Do duyên khác nhau của nghiệp phát sinh sự khác nhau của chúng sanh trong thế gian này như được lợi, mất lợi; được danh, mất danh; được khen và bị chê; hạnh phúc và đau khổ.

Chúng ta xem thêm:

Do nghiệp thế gian vận hành, do nghiệp nhân loại tồn tại, và do nghiệp chúng sinh bị dính mắc như trục xe lăn theo bánh xe. ("Suttanipàta", 654)

Ðức Phật dạy rằng mọi pháp phát sinh vì nhân duyên; con người có sự khác nhau về đặc điểm và cá tính, họ sống trong những hoàn cảnh khác nhau, đó không phải là vấn đề ngẫu nhiên. Ngay cả sự khác nhau đặc điểm của những loài động vật là do nghiệp khác nhau. Loài động vật cũng có tâm; chúng ăn ở tốt hoặc xấu. Như vậy chúng tạo những nghiệp khác nhau mà sản sinh những kết quả khác nhau. Nếu chúng ta hiểu rằng mỗi nghiệp mang lại kết quả riêng của nó, chúng ta tin chắc rằng không có lý do nào để tự hào nếu chúng ta sinh vào gia đình giàu sang, hay nếu chúng ta nhận sự tán thán, ca ngợi hoặc những điều lạc thú khác. Khi chúng ta bị đau khổ, chúng ta tin rằng sự đau khổ đó là vì những hành vi bất thiện của chúng ta. Như vậy chúng ta sẽ không đổ lỗi cho người khác về sự bất hạnh của chúng ta, hay ganh tị khi những người khác thụ hưởng cảnh giàu sang. Khi chúng ta hiểu được chân lý này, chúng ta sẽ thấy rằng không có bản ngã thụ hưởng hạnh phúc hay đau khổ; nó chỉ là tâm dị thục quả phát sinh vì duyên diệt.

Chúng ta thấy rằng người sinh ra cùng một hoàn cảnh vẫn có những cử chỉ khác nhau. Ví dụ giữa những người sinh ra trong gia đình giàu có, một số người có tâm ganh tị và một số khác thì không. Thực tế những người sinh ra trong gia đình giàu có là kết quả của nghiệp. Sự ganh tị là điều kiện do người đó tạo tác. Có nhiều nhân duyên khác nhau đóng vai trò trong đời sống của mỗi người. Nghiệp khiến cho người ta sinh trong hoàn cảnh nào đó và nghiệp tạo tác cá tính của người đó.

Người ta có thể hoài nghi về đời sống quá khứ và tương lai, vì họ chỉ biết kiếp sống hiện tại. Tuy nhiên, trong kiếp sống hiện tại, chúng ta lưu ý rằng, nghiệp khác nhau có những kết quả khác nhau. Những kết quả này phải có những nguyên nhân của nó trong quá khứ. Quá khứ làm duyên cho hiện tại và những hành động trong hiện tại chúng ta tạo sẽ trổ quả trong tương lai. Nếu hiểu biết hiện tại, chúng ta có thể biết nhiều hơn về quá khứ và tương lai.

Kiếp sống quá khứ, hiện tại và vị lai là một chuỗi tâm không gián đoạn. Mỗi tâm sinh thì lập tức diệt để tâm kế tiếp phát sinh. Tâm không có tồn tại mà không có khoảnh khắc nào không có tâm. Nếu có những khoảnh khắc không có tâm thì thân này sẽ trở thành xác chết. Thậm chí khi ngủ ngon giấc chúng ta vẫn có tâm. Mỗi tâm sinh diệt làm duyên cho tâm kế và như vậy tâm cuối cùng của kiếp sống này là nhân duyên cho tâm đầu tiên của kiếp sống mới (thức tái sinh). Như vậy chúng ta thấy rằng, đời sống luôn luôn tiếp diễn, sinh tử luân hồi.

Có thể chỉ có một tâm ở một thời điểm mà tâm sinh diệt rất nhanh đến nỗi người ta có ấn tượng rằng có nhiều tâm phát sinh cùng một thời điểm. Chúng ta có thể suy nghĩ là chúng ta có thể thấy và nghe cùng một lúc, nhưng thật ra mỗi tâm này phát sinh ở mỗi thời điểm khác nhau. Chúng ta có thể xác minh xuyên qua kinh nghiệm riêng của mình, loại tâm nhãn thức thì khác với tâm nhĩ thức; những tâm này phát sinh vì những nguyên nhân khác nhau và biết những cảnh khác nhau.

Tâm là biết cảnh. Mỗi tâm chỉ biết một cảnh, không thể có tâm mà không có cảnh. Tâm biết những cảnh khác nhau xuyên qua sáu môn như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Tâm nhãn thức biết cảnh, nó phát sinh do mắt. Chúng ta có thể sử dụng danh từ "cảnh sắc" do nhãn thức, nhưng không cần thiết đặt tên cho nó là "cảnh sắc". Khi cảnh sắc tiếp xúc nhãn căn thì chúng trợ duyên cho sự thấy. Sự thấy thì khác biệt với sự suy nghĩ về những điều mà chúng ta thấy; tiếp theo là một loại tâm biết cảnh xuyên qua ý môn. Sự nghe là một loại tâm nhĩ thức khác biệt với sự thấy; nó có những điều kiện khác nhau và biết cảnh khác nhau. Khi âm thanh tiếp xúc nhĩ căn, nó làm duyên cho tâm biết cảnh thinh. Phải có những nguyên nhân thích hợp cho sự phát sinh của mỗi loại tâm. Chúng ta không thể nào ngửi bằng tai và nếm bằng mắt. Tâm tỉ thức biết cảnh hương do lỗ mũi. Tâm thiệt thức biết cảnh vị do lưỡi. Tâm thân thức biết cảnh xúc do thân căn. Do tâm ý môn nó có thể biết tất cả các loại cảnh. Chỉ có một loại tâm ở một thời điểm và ở một thời điểm tâm có thể chỉ biết một cảnh.

Theo lý thuyết chúng ta có thể hiểu rằng, tâm nhãn thức có đặc tính khác với tâm nhĩ thức và tâm nhãn thức thì cũng khác với sắc pháp mà sắc pháp thì không biết cảnh. Sự hiểu biết này đối với chúng ta thì rất bình thường, nhưng hiểu biết theo pháp học thì khác với hiểu biết theo pháp hành. Hiểu biết theo pháp học thì không uyên thâm, nó không thể đoạn trừ khái niệm về bản ngã. Nếu chúng ta nhận biết bằng pháp hành thì chỉ nhận thức pháp khi chúng xuất hiện xuyên qua sáu môn. Loại hiểu biết này có thể đoạn trừ khái niệm về bản ngã.

Chúng ta sống trong một thế gian mà thế gian là cảnh vật để chúng ta nhận thức. Ở thời điểm chúng ta thấy thế gian là cảnh sắc, thì cảnh sắc không tồn tại, nó diệt ngay lập tức. Khi chúng ta nghe thế gian là cảnh thinh thì nó cũng hoại diệt nữa. Chúng ta bị dính mắc và thu hút với những cảnh trần như nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và ý môn, nhưng một trong những trần cảnh này thì không trường tồn. Ðiều gì vô thường thì không nên chấp cho là bản ngã.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh(tập 4, chương V, 5, Rohitassa) chúng ta xem phần vị Trời Rohitassahỏi Ðức Phật về sự tận cùng của thế gian. Vị Trời bạch với Ðức Phật:

"Lạy Thế Tôn, có thể cho chúng con biết bằng sự đi để biết, thấy, đạt được sự tận cùng của thế gian, mà nơi nào không có sinh, già, bịnh, chết, không từ bỏ kiếp này mà cũng không tái sinh kiếp khác không?"

"Này Thiên tử, nơi nào không có sự sinh hay già, không có bệnh, không có chết, không từ bỏ kiếp sống này và không tái sinh kiếp khác, Như Lai tuyên bố rằng sự tận cùng của thế gian không chỉ bằng sự đi để được biết, thấy hay đạt đến."

"Bạch Thế Tôn thật là vi diệu, thật là hy hữu thay những lời Thế Tôn khéo thuyết giảng: nơi nào không còn sinh ... sự tận cùng của thế gian không chỉ bằng sự đi để được biết, được thấy hoặc đạt được!"

"Bạch Thế Tôn, thuở xưa con là đạo sĩ có tên là Rohitassa, con trai của Bhoja, một trong những người có thần thông, đi trên hư không ... tốc độ bước chân của con là bước từ bờ biển đông sang bờ biển tây. Bạch Thế Tôn đối với con có tốc độ bước đi nhanh như vậy, lúc đó con có suy nghĩ như sau: con nhất định đến tận cùng thế gian này bằng sự đi của con."

"Nhưng bạch Thế Tôn, không tính thời gian ăn, uống, nhai nếm, đại tiểu tiện và ngủ nghỉ, nhưng tuổi thọ của con là 100 năm, mặc dù con đã du hành 100 năm, nhưng con chưa đi đến sự tận cùng của thế gian mà con đã chết trước khi đó. Bạch Thế Tôn, thật hy hữu thay, thật vi diệu thay, những lời Thế Tôn khéo thuyết giảng: Này thiên tử, nơi nào không còn sinh ... sự tận cùng của thế gian đó không chỉ bằng sự đi để biết, thấy hoặc đạt được."

"Nhưng này thiên tử, Như Lai tuyên bố rằng không chấm dứt đau khổ thì không đi đến sự tận cùng của thế gian. Này thiên tử, hơn thế nữa, với tấm thân dài một trượng này, có tưởng và thức, Như Lai tuyên bố thế gian này tồn tại, cũng vậy nguồn gốc thế gian, sự đoạn tận của thế gian và con đường đưa đến sự đoạn tận của thế gian."

"Bằng sự đi không thể đạt tận cùng thế gian.
Nếu người chưa giải thoát đau khổ,
Thì không đi đến tận cùng thế gian.
Như vậy bậc trí hiểu biết thế gian đi đến tận cùng thế gian.
Người sống đời phạm hạnh,
Biết được sự tận cùng thế gian bằng sự thanh tịnh,
Không mong cầu đời này hay đời khác."

Ðức Phật dạy chúng ta về "thế gian" và con đường dẫn đến chấm dứt thế gian, đó là chấm dứt đau khổ. Ðây là con đường giải thoát thế gian, con đường đó là nhận biết tấm thân dài một trượng này có tưởng và thức.

CÂU HỎI:

1/- Người ta sinh ra trong những hoàn cảnh khác nhau: có người giàu, có người nghèo ... Ðây là nguyên nhân gì?
2/- Con người có những đức tính khác nhau: như có người keo kiệt, có người rộng lượng bố thí. Ðiều này do duyên cớ gì?
3/- Mỗi tâm hoàn toàn sinh diệt. Làm thế nào phiền não có thể được huân tập?

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2022(Xem: 36568)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 25318)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21217)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13383)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 14924)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15075)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17740)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16741)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5030)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21081)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]