Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 12: Tỉnh thức

18/07/201102:02(Xem: 4049)
Chương 12: Tỉnh thức

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XII
TỈNH THỨC

Hiểu rõ về chính chúng ta có nghĩa rằng hiểu rõ sự liên hệ của chúng ta với thế giới – không những với thế giới của những ý tưởng và những con người, nhưng còn với thiên nhiên, với những sự vật chúng ta sở hữu. Đó là sống của chúng ta – sống là liên hệ với tổng thể. Hiểu rõ về liên hệ đó có cần sự chuyên môn hóa hay không? Rõ ràng là không. Điều gì nó yêu cầu là trạng thái tỉnh thức để gặp gỡ sống như một tổng thể. Làm thế nào người ta tỉnh thức được? Đó là vấn đề của chúng ta. Làm thế nào người ta có được tỉnh thức đó – nếu tôi được phép dùng từ ngữ này mà không làm cho nó có nghĩa chuyên môn hóa? Làm thế nào người ta có thể gặp gỡ sống như một tổng thể? – mà có nghĩa không những sự liên hệ cá nhân với người hàng xóm của bạn nhưng cũng còn với thiên nhiên, với những sự vật mà bạn sở hữu, với những ý tưởng, và với những sự việc mà cái trí sáng chế như ảo tưởng, ham muốn và vân vân. Làm thế nào người ta có thể tỉnh thức được toàn qui trình của sự liên hệ này? Chắc chắn đó là sống của chúng ta, phải không? Không có sống nếu không có liên hệ; và muốn hiểu rõ liên hệ này không có nghĩa là cô lập. Trái lại, nó cần một tỉnh thức hay nhận biết trọn vẹn được toàn qui trình của liên hệ.

Làm thế nào người ta tỉnh thức được? Làm thế nào người ta nhận biết được bất kỳ sự việc nào? Làm thế nào bạn tỉnh thức được sự liên hệ của bạn với một con người? Làm thế nào bạn nhận biết được cây cối, tiếng hót của một con chim? Làm thế nào bạn tỉnh thức được những phản ứng của bạn khi bạn đọc một tờ báo? Làm thế nào bạn nhận biết được những phản ứng phía bên ngoài của cái trí, cũng như những phản ứng phía bên trong? Làm thế nào chúng ta tỉnh thức được bất kỳ sự việc nào? Trước hết chúng ta phải nhận biết – phải không – được một phản ứng đến một kích động, mà là một sự kiện hiển nhiên; tôi thấy những cái cây, và có một phản ứng, sau đó cảm giác, tiếp xúc, nhận dạng và ham muốn. Đó là qui trình thông thường, phải không? Chúng ta có thể quan sát thực sự điều gì xảy ra, mà không cần học hành bất kỳ quyển sách nào.

Vì vậy qua nhận dạng bạn có vui thú và đau khổ. Và ‘khả năng’ của chúng ta là quan tâm đến vui thú và lẩn tránh đau khổ này, phải không? Nếu bạn thích thú cái gì đó, nếu nó cho bạn vui thú, có ‘khả năng’ ngay tức khắc; có một nhận biết được sự kiện đó ngay tức khắc; và nếu nó là đau khổ, ‘khả năng’ được phát triển để lẩn tránh nó. Chừng nào chúng ta còn đang nương dựa ‘khả năng’ để hiểu rõ về chính chúng ta, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ thất bại; bởi vì hiểu rõ về chính chúng ta không lệ thuộc vào khả năng. Nó không là một phương pháp kỹ thuật mà bạn phát triển, vun quén và gia tăng qua thời gian, qua liên tục mài bén. Chắc chắn, tỉnh thức được chính mình này có thể được thử thách trong hành động của liên hệ; nó có thể được kiểm tra trong cách chúng ta nói chuyện, trong cách chúng ta cư xử. Hãy quan sát về chính bạn mà không có bất kỳ sự nhận dạng, không có bất kỳ so sánh, không có bất kỳ chỉ trích; chỉ nhìn ngắm, và bạn sẽ thấy một sự việc lạ thường đang xảy ra. Bạn không chỉ kết thúc một hoạt động không có ý thức – bởi vì hầu hết những hoạt động của chúng ta đều không có ý thức – bạn không chỉ kết thúc nó, nhưng, thâm sâu hơn nữa, bạn nhận biết được những động cơ của hành động đó, mà không tìm hiểu, không đào sâu vào nó.

Khi bạn tỉnh thức, bạn thấy toàn qui trình suy nghĩ và hành động của bạn; nhưng nó có thể xảy ra chỉ khi nào không có phê bình. Khi tôi phê bình điều gì đó, tôi không hiểu rõ nó, và đó là một cách lẩn tránh bất kỳ loại hiểu rõ nào. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều làm việc đó có mục đích; chúng ta phê bình ngay tức khắc và chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ. Nếu chúng ta không phê bình nhưng lưu tâm đến nó, tỉnh thức được nó, vậy thì nội dung, ý nghĩa của hành động đó bắt đầu mở toang ra. Thử nghiệm điều này và bạn sẽ thấy cho chính bạn. Chỉ tỉnh thức – không có bất kỳ ý thức của phê bình nào – mà dường như có lẽ khá tiêu cực nhưng không là tiêu cực. Trái lại, nó có chất lượng thụ động mà là hành động trực tiếp; và bạn sẽ khám phá điều này nếu bạn thử nghiệm nó.

Rốt cuộc, nếu bạn muốn hiểu rõ một điều gì đó, bạn phải ở trong một trạng thái thụ động, đúng chứ? Bạn không thể tiếp tục suy nghĩ về nó, phỏng đoán về nó hay tìm hiểu về nó. Bạn phải dư thừa nhạy cảm để thâu nhận nội dung của nó. Nó giống như một tấm kính chụp ảnh nhạy cảm. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi phải tỉnh thức thụ động; vậy thì bạn bắt đầu kể cho tôi tất cả câu chuyện của bạn. Chắc chắn, đó không là vấn đề của khả năng hay chuyên môn hóa. Trong tiến hành đó chúng ta bắt đầu hiểu rõ về chính chúng ta – không chỉ ở tầng hời hợt của ý thức chúng ta, nhưng sâu thẳm hơn, mà còn quan trọng hơn nhiều; bởi vì ở đó là tất cả những động cơ hay ý định của chúng ta, những đòi hỏi, những lo âu, những sợ hãi, những tham lam rối loạn, giấu giếm của chúng ta. Phía bên ngoài chúng ta có lẽ kiểm soát chúng nhưng phía bên trong chúng đang sôi sục. Chừng nào những điều đó chưa được hiểu rõ hoàn toàn qua sự tỉnh thức, chắc chắn không thể có tự do, không thể có hạnh phúc, không có thông minh.

Thông minh là một vấn đề của chuyên môn hóa hay sao? – thông minh là sự nhận biết được tổng thể ‘qui trình của chúng ta’. Và thông minh đó sẽ được vun quén qua bất kỳ hình thức nào của chuyên môn hóa? Bởi vì đó là điều gì đang xảy ra, phải không? Giáo sĩ, bác sĩ, kỹ sư, người công nghiệp, người kinh doanh, vị giáo sư – chúng ta có tinh thần của tất cả sự chuyên môn hóa đó.

Muốn nhận ra mức độ tột đỉnh của thông minh – mà là sự thật, mà là Thượng đế, mà không thể được diễn tả – muốn nhận ra điều đó, chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải biến chính chúng ta thành những con người chuyên môn. Chúng ta học hỏi, chúng ta dò dẫm, chúng ta tìm kiếm; và, với tinh thần của nguời chuyên môn hay nương dựa người chuyên môn, chúng ta tìm hiểu về chính chúng ta với mục đích phát triển một khả năng mà sẽ giúp cởi bỏ những xung đột của chúng ta, những đau khổ của chúng ta.

Vấn đề của chúng ta là, nếu chúng ta nhận biết được, liệu những xung đột và những đau khổ và những phiền muộn của sự tồn tại hàng ngày của chúng ta có thể được giải quyết bởi một người khác; và nếu chúng không thể, làm thế nào chúng ta có thể giải quyết được chúng? Chắc chắn, muốn hiểu rõ một vấn đề cần phải có một thông minh nào đó, và thông minh đó không thể được bắt nguồn từ hay được vun quén qua sự chuyên biệt hóa. Nó hiện diện chỉ khi nào chúng ta tỉnh thức một cách thụ động được toàn qui trình của ý thức của chúng ta, mà là nhận biết được chính chúng ta mà không có sự chọn lựa, mà không chọn lựa điều gì đúng và điều gì sai. Khi bạn tỉnh thức thụ động, bạn sẽ thấy rằng từ thụ động đó – mà không là sự biếng nhác, mà không là hôn trầm, nhưng tỉnh thức cực độ – vấn đề có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn; mà có nghĩa không còn sự đồng hóa cùng vấn đề và vì vậy không có nhận xét và thế là vấn đề bắt đầu bộc lộ nội dung của nó. Nếu bạn có thể làm điều đó một cách kiên trì, liên tục, vậy thì mỗi vấn đề có thể được giải quyết một cách căn bản, không phải hời hợt. Đó là sự khó khăn, bởi vì hầu hết chúng ta đều không có khả năng tỉnh thức một cách thụ động, thả cho vấn đề kể câu chuyện mà không có sự diễn giải về nó của chúng ta. Chúng ta không biết làm thế nào nhìn vào vấn đề một cách bình thản. Chúng ta không có khả năng như thế; bất hạnh thay, bởi vì chúng ta mong muốn một kết quả từ vấn đề, chúng ta muốn một câu trả lời, chúng ta hướng đến một kết thúc; hay chúng ta cố gắng diễn giải vấn đề tùy theo vui thú hoặc đau khổ của chúng ta; hay chúng ta có sẵn một câu trả lời về làm cách nào để giải quyết vấn đề. Vì vậy chúng ta tiếp cận một vấn đề, mà luôn luôn mới mẻ, bằng một khuôn mẫu cũ kỹ. Thách thức luôn luôn mới mẻ, nhưng phản ứng của chúng ta lại luôn luôn cũ kỹ; và khó khăn của chúng ta là gặp gỡ thách thức một cách trọn vẹn, một cách nguyên vẹn. Vấn đề luôn luôn là vấn đề của liên hệ – với những sự vật, với những con người, hay với những ý tưởng; không còn vấn đề nào khác; và muốn gặp gỡ vấn đề của liên hệ, cùng những đòi hỏi đang thay đổi liên tục của nó – muốn gặp gỡ nó đúng cách, muốn gặp gỡ nó nguyên vẹn – người ta phải tỉnh thức một cách thụ động. Thụ động này không là vấn đề của khẳng định, của ý chí, của kỷ luật; tỉnh thức được rằng chúng ta không thụ động là sự khởi đầu. Nhận biết được rằng chúng ta muốn có một câu trả lời đặc biệt cho một vấn đề đặc biệt – chắc chắn đó là sự khởi đầu: hiểu rõ về chính chúng ta trong liên hệ với vấn đề và làm thế nào chúng ta giải quyết được vấn đề. Vậy thì khi chúng ta bắt đầu hiểu rõ về chính chúng ta trong liên hệ với vấn đề – chúng ta phản ứng như thế nào, những thành kiến, những đòi hỏi, những theo đuổi khác nhau của chúng ta, trong gặp gỡ vấn đề đó, là gì?– tỉnh thức này sẽ phơi bày qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta, của bản chất phía bên trong riêng của chúng ta; và trong đó có một giải thoát.

Chắc chắn, điều gì quan trọng là tỉnh thức không-chọn lựa, bởi vì chọn lựa tạo ra xung đột. Người chọn lựa đang bị hoang mang, thế là anh ấy chọn lựa; nếu anh ấy không bị hoang mang, không có chọn lựa. Chỉ con người bị hoang mang mới cần chọn lựa điều gì anh ấy sẽ làm hay sẽ không làm. Con người rõ ràng và đơn giản không chọn lựa; cái gì hiện diện, là. Chắc chắn, hành động được đặt nền tảng trên một ý tưởng là hành động chọn lựa và hành động như thế không đang giải thoát; trái lại, nó chỉ tạo ra kháng cự hơn nữa, xung đột hơn nữa, tùy theo suy nghĩ bị quy định đó.

Vì vậy, điều quan trọng là, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc tỉnh thức không-tích lũy sự trải nghiệm mà tỉnh thức mang lại; bởi vì khoảnh khắc bạn tích lũy, bạn chỉ tỉnh thức tùy theo tích lũy đó, tùy theo khuôn mẫu đó, tùy theo trải nghiệm đó. Đó là tỉnh thức của bạn bị quy định bởi sự tích lũy của bạn và thế là không còn quan sát nhưng chỉ diễn giải. Nơi nào có sự diễn giải, có chọn lựa, và chọn lựa tạo ra xung đột; trong xung đột không thể có hiểu rõ.

Sống là một vấn đề của liên hệ; và muốn hiểu rõ liên hệ không-đứng yên đó, phải có một tỉnh thức mà mềm dẻo, một nhận biết mà thụ động đầy sáng suốt, không phải năng động đầy hùng hổ. Như tôi đã nói, tỉnh thức thụ động này không hiện diện qua bất kỳ hình thức nào của kỷ luật, qua bất kỳ hình thức nào của luyện tập. Chính xác nó chỉ là tỉnh thức, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, được suy nghĩ và cảm thấy của chúng ta, không chỉ khi chúng ta đang thức giấc; bởi vì chúng ta sẽ thấy, khi chúng ta thâm nhập nó sâu thẳm hơn, rằng chúng ta bắt đầu nằm mơ, rằng chúng ta bắt đầu tuôn ra mọi loại biểu tượng mà chúng ta diễn giải như những giấc mộng. Vì vậy chúng ta mở cánh cửa vào tầng ý thức giấu giếm, mà trở thành cái đã được biết; nhưng muốn tìm ra cái không biết được, chúng ta phải vượt qua cái cửa – chắc chắn, đó là sự khó khăn của chúng ta. Sự thật không là một sự việc mà có thể biết được bởi cái trí, bởi vì cái trí là kết quả của cái đã được biết, của quá khứ; vì vậy cái trí phải hiểu rõ chính nó và sự vận hành của nó, sự thật của nó, và chỉ lúc đó cái không biết được mới có thể hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2014(Xem: 10859)
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình.
16/11/2014(Xem: 15255)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
15/11/2014(Xem: 20252)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
25/10/2014(Xem: 20629)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
20/10/2014(Xem: 33016)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
18/08/2014(Xem: 58364)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
15/08/2014(Xem: 12985)
Tánh biết tham lam vật chất ,ích kỷ,vị tha,nhân quả,,ăn năn ,sám hối, thương yêu, ghét bỏ, sợ hãi, buồn tênh, v.v… của muôn loài hữu tình chúng sinh nói chung, con người nói riêng được hiển lộ ra ngoài thân ở lời nói và hành động trong đời sống hằng ngày.Tánh biết này,được các nhà ngôn ngữ cổ đại Trung Quốc gọi là Tâm.Từ đó cho đến nay người Trung Quốc và Việt Nam đều nói là tâm, một khi đề cập đến sự biết của các loài hữu tình chúng sinh,và con người.
18/03/2014(Xem: 14438)
Phật dạy bậc đại nhân có tám điều giác ngộ. Điều thứ nhất, giác ngộ cuộc đời là vô thường, vũ trụ mênh mông tạm bợ. Gốc của bốn đại vốn không thật, trống rỗng nhưng nếu chúng ta không biết, chấp nó là thật thì sẽ dẫn đến đau khổ. Tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thật và không có chủ thể. Tâm này là cội nguồn phát sinh điều ác, thân này là nơi tích tụ tội lỗi. Người hay quán chiếu được như thế dần dần sẽ thoát khỏi sanh tử.
12/03/2014(Xem: 28019)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát Bậc thành công đức diệu Dũ lòng đại từ bi Nơi trong một thân tâm Hiện ra ngàn tay mắt
12/03/2014(Xem: 24996)
Trong một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phân xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo dục, chính khách…Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều vấn đề đời sống xã hội của người tham dự một cách thẳng thắn và có duyên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]