Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Madras, 5 tháng hai 1950

10/07/201114:34(Xem: 2806)
23. Madras, 5 tháng hai 1950

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ TÌNH YÊU VÀ SỰ CÔ ĐỘC
[ON LOVE AND LONELINESS]
Lời dịch: Ông Không 2009

Madras, 5 tháng hai 1950

Người hỏi: Tất cả chúng ta đều trải nghiệm trạng thái cô độc; chúng ta biết đau khổ của nó và thấy những nguyên nhân của nó, những gốc rễ của nó. Nhưng trạng thái cô đơn là gì? Nó có khác biệt trạng thái cô độc hay không?

Krishnamurti: Trạng thái cô độc là sự đau khổ, sự đau đớn cực độ của hiu quạnh, trạng thái cô lập khi bạn như một thực thể không phù hợp với bất kỳ cái gì, với nhóm người, với quốc gia, với người vợ của bạn, với con cái của bạn, với người chồng của bạn, bạn bị cắt đứt khỏi những người khác. Bạn biết trạng thái đó. Bây giờ, bạn biết trạng thái cô đơn không? Bạn quen nghĩ rằng bạn cô đơn, nhưng bạn cô đơn thật sao?

Cô đơn khác hẳn cô độc, nhưng bạn không thể hiểu rõ nó nếu bạn không hiểu rõ cô độc. Bạn biết trạng thái cô độc? Lén lút bạn đã quan sát nó, nhìn thấy nó, không thích nó. Muốn biết nó, bạn phải hiệp thông cùng nó mà không có rào chắn giữa nó và bạn, không kết luận, không thành kiến, hay phỏng đoán; bạn phải tiếp cận nó bằng tự do và không bằng sợ hãi. Muốn hiểu rõ trạng thái cô độc, bạn phải đến với nó mà không có bất kỳ ý thức nào của sợ hãi. Nếu bạn tiếp cận cô độc mà nói rằng bạn biết nguyên nhân của nó, gốc rễ của nó rồi, vậy thì bạn không thể hiểu rõ nó. Bạn biết gốc rễ của nó không? Bạn biết chúng bằng cách phỏng đoán từ bên ngoài. Bạn biết nội dung bên trong của trạng thái cô độc? Bạn chỉ cho nó một diễn tả, và từ ngữ không là sự việc, sự thật. Muốn hiểu rõ nó, bạn phải tiếp cận nó mà không có bất kỳ ý thức nào của chạy trốn khỏi nó. Chính sự suy nghĩ chạy trốn khỏi trạng thái cô độc trong chính nó là một hình thức của sự thiếu thốn bên trong. Hầu hết những hoạt động của chúng ta không là một chạy trốn hay sao? Khi bạn ở một mình, bạn bật máy thâu thanh, bạn thực hiện những nghi lễ, theo sau những vị đạo sư, nói tầm phào với những người khác, đi xem phim, có mặt tại những cuộc đua, và vân vân. Sống hàng ngày của bạn là chạy trốn khỏi chính bạn, vì vậy những tẩu thoát trở thành quan trọng nhất và bạn cãi cọ ầm ĩ về những tẩu thoát, hoặc là nhậu nhẹt, hoặc là Thượng đế. Sự chạy trốn là một lối thoát. Mặc dù có lẽ bạn có những phương tiện khác nhau của tẩu thoát. Bạn có lẽ gây ra sự tổn hại ghê gớm phần tâm lý bằng những tẩu thoát được kính trọng của bạn, và tôi, phần xã hội, bằng những tẩu thoát trần tục của tôi; nhưng muốn hiểu rõ trạng thái cô độc tất cả những tẩu thoát phải chấm dứt, không qua ép buộc, cưỡng bách, nhưng bằng cách thấy sự giả dối của tẩu thoát. Vậy là bạn trực tiếp đang đương đầu “cái gì là”, và vấn đề thực sự bắt đầu.

Trạng thái cô độc là gì? Muốn hiểu rõ nó, bạn không được cho nó một cái tên. Chính sự đặt tên, chính sự liên tưởng của tư tưởng với những kỷ niệm khác về nó, làm nổi bật trạng thái cô độc. Hãy thử nghiệm nó và thấy. Khi bạn không còn tẩu thoát, bạn sẽ thấy rằng nếu bạn không nhận ra trạng thái cô độc là gì, bất kỳ điều gì bạn làm về nó là một hình thức khác của tẩu thoát. Chỉ bằng cách hiểu rõ trạng thái cô độc bạn mới có thể vượt khỏi nó.

Vấn đề của trạng thái cô đơn lại hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta không bao giờ cô đơn; chúng ta luôn luôn ở cùng con người ngoại trừ, có lẽ, khi chúng ta dạo bộ một mình. Chúng ta là kết quả của một tiến hành tổng thể được cấu thành từ những ảnh hưởng thuộc kinh tế, xã hội, khí hậu, và những ảnh hưởng thuộc môi trường khác, và chừng nào chúng ta còn bị ảnh hưởng, chúng ta không cô đơn. Chừng nào còn có sự tiến hành của tích lũy và trải nghiệm, không bao giờ có thể có trạng thái cô đơn. Bạn có thể tưởng tượng rằng bạn cô đơn bằng cách tự tách rời chính bạn qua những hoạt động cá nhân, riêng lẻ, chật hẹp, nhưng đó không là trạng thái cô đơn. Trạng thái cô đơn có thể hiện diện, chỉ khi nào sự ảnh hưởng không còn. Trạng thái cô đơn là hành động mà không là kết quả của một phản ứng, mà không là đáp trả đến một thách thức hay một kích thích. Trạng thái cô độc là một vấn đề của cô lập, và chúng ta đang tìm kiếm cô lập trong tất cả những liên hệ của chúng ta, mà là chính bản thể của cái ngã,
cái “tôi” – công việc của tôi, bản chất của tôi, bổn phận của tôi, tài sản của tôi, liên hệ của tôi. Chính sự tiến hành của tư tưởng, mà là kết quả của tất cả những tư tưởng và những ảnh hưởng của con người, dẫn đến sự cô lập. Hiểu rõ trạng thái cô độc không là một hành động dành cho những người giàu có; bạn không thể hiểu rõ nó nếu trong bạn không có sự đau khổ của thiếu thốn bị giấu kín mà hiện diện cùng trống rỗng, tuyệt vọng. Trạng thái cô đơn không là một cô lập, nó không là đối nghịch của trạng thái cô độc; nó là một trạng thái của đang là khi tất cả trải nghiệm và hiểu biết không còn.

Người hỏi: Ông đã nói về sự liên hệ được đặt nền tảng trên sự sử dụng một người khác cho sự thỏa mãn riêng của người ta, và ông thường gợi ý một trạng thái được gọi là tình yêu. Ông có ý gì qua từ ngữ tình yêu?

Krishnamurti: Chúng ta biết liên hệ của chúng ta là gì – một thỏa mãn và sử dụng lẫn nhau, mặc dù chúng ta che đậy nó bằng cách gọi nó là tình yêu. Trong sử dụng có sự dịu dàng và che chở cái gì được sử dụng. Chúng ta bảo vệ biên giới của chúng ta, những quyển sách của chúng ta, tài sản của chúng ta: tương tự như thế, chúng ta cẩn thận che chở những người vợ của chúng ta, những gia đình của chúng ta, xã hội của chúng ta, bởi vì nếu không có chúng chúng ta sẽ bị cô độc, hụt hẫng.Nếu không có người con cha mẹ cảm thấy cô độc; bạn hy vọng rằng điều gì bạn không thành tựu được, người con sẽ hoàn tất, vì vậy người con trở thành một công cụ cho ảo tưởng của bạn. Chúng ta biết sự liên hệ của nhu cầu và sử dụng hàng ngày. Chúng ta cần người đưa thư và anh ấy cần chúng ta, tuy nhiên chúng ta lại không nói chúng ta thương yêu người đưa thư. Nhưng chúng ta lại nói rằng chúng ta thương yêu người vợ và con cái của chúng ta, mặc dù chúng ta sử dụng họ cho sự thỏa mãn cá nhân riêng của chúng ta và sẵn lòng hy sinh họ cho ảo tuởng của điều gì được gọi là yêu tổ quốc. Chúng ta biết tiến trình này rất rõ, và chắc chắn nó không thể là tình yêu. Tình yêu mà sử dụng, trục lợi, và sau đó cảm thấy ân hận không thể là tình yêu, bởi vì tình yêu không thể là một việc của cái trí.

Bây giờ, chúng ta hãy thử nghiệm và khám phá tình yêu là gì – khám phá, không chỉ bằng từ ngữ, nhưng bằng đang trải nghiệm thực sự trạng thái đó. Khi bạn sử dụng tôi như một đạo sư và tôi sử dụng bạn như người đệ tử, có sự trục lợi lẫn nhau. Tương tự, khi bạn sử dụng người vợ và con cái của bạn cho sự vững mạnh của bạn, có trục lợi. Chắc chắn, đó không là tình yêu. Khi có sử dụng, phải có sở hữu; sở hữu luôn luôn nuôi dưỡng sợ hãi, và cùng sợ hãi hiện diện ghen tuông, ganh ghét, ngờ vực. Khi có sử dụng, không thể có tình yêu, bởi vì tình yêu không là cái gì đó của cái trí. Suy nghĩ về một người không là thương yêu người đó. Bạn suy nghĩ về một người chỉ khi nào người đó không hiện diện, khi người đó chết rồi, khi người đó đã đi khỏi, hay khi người đó không cho bạn cái gì bạn mong ước. Vậy là sự thiếu thốn bên trong của bạn xếp đặt sự tiến hành của cái trí đang xảy ra. Khi người đó gần gũi bạn, bạn không suy nghĩ về người đó, vậy là bạn đã quen thuộc với người đó – người đó ở ngay trước mặt. Thói quen là một phương tiện của quên lãng và được an bình để cho bạn sẽ không bị xáo trộn. Vì vậy sử dụng luôn luôn phải dẫn đến vô cảm, và đó không là tình yêu.

Trạng thái đó khi sử dụng là gì – mà là sự tiến hành của tư tưởng như một phương tiện để che đậy sự thiếu thốn bên trong, một cách tích cực hay tiêu cực – phải không? Trạng thái đó khi không có ý thức của thỏa mãn là gì? Tìm kiếm thỏa mãn là chính bản chất của cái trí. Tình dục là cảm giác mà được tạo tác, được tạo hình ảnh bởi cái trí, và sau đó cái trí hành động hay không hành động. Cảm giác là một tiến hành của tư tưởng, mà không là tình yêu. Khi cái trí thống trị và sự tiến hành của tư tưởng là quan trọng, không có tình yêu. Tiến hành này của sử dụng, suy nghĩ, tưởng tượng, nắm chặt, khép kín, khước từ, tất cả là khói, và khi khói không còn, ngọn lửa của tình yêu hiện diện. Thỉnh thoảng chúng ta có ngọn lửa đó, phong phú, thừa thãi, trọn vẹn; nhưng khói quay trở lại bởi vì chúng ta không thể sống lâu cùng ngọn lửa, mà không có ý thức của gần gũi, hoặc của một hoặc của nhiều, hoặc của cá nhân hoặc của không-cá nhân. Thỉnh thoảng hầu hết chúng ta đã biết hương thơm của tình yêu và nhạy cảm của nó, nhưng khói của sử dụng, thói quen, ghen tuông, sở hữu, hợp đồng và phá vỡ hợp đồng – tất cả điều này đã trở thành quan trọng cho chúng ta, và vậy là ngọn lửa của tình yêu không hiện diện. Khi khói hiện diện, ngọn lửa bặt tăm; nhưng khi chúng ta hiểu rõ sự thật của sử dụng, ngọn lửa hiện diện. Chúng ta sử dụng một người khác bởi vì bên trong chúng ta nghèo khó, thiếu thốn, tầm thường, nhỏ nhen, cô độc, và chúng ta hy vọng rằng, bằng cách sử dụng một người khác, chúng ta có thể tẩu thoát. Tương tự như thế, chúng ta sử dụng Thượng đế như một phương tiện của tẩu thoát. Tình yêu Thượng đế không là tình yêu sự thật. Bạn không thể thương yêu sự thật; thương yêu sự thật chỉ là một phương tiện của sử dụng nó để đạt được cái gì đó mà bạn biết, và thế là luôn luôn có sự sợ hãi cá nhân rằng bạn sẽ mất mát cái gì đó mà bạn biết.

Bạn sẽ biết tình yêu khi cái trí rất tĩnh lặng và được tự do khỏi sự tìm kiếm thỏa mãn và những tẩu thoát của nó. Trước hết, cái trí phải hoàn toàn đến một kết thúc. Cái trí là kết quả của tư tưởng, và tư tưởng chỉ là một đoạn đường, một phương tiện đến một kết thúc. Khi sống chỉ là một đoạn đường đến một cái gì đó, làm thế nào có thể có tình yêu? Tình yêu hiện diện khi cái trí tự nhiên tĩnh lặng, không phải được làm tĩnh lặng, khi nó thấy sự giả dối như giả dối và sự thật như sự thật. Khi cái trí tĩnh lặng, vậy thì bất kỳ điều gì xảy ra là hành động của tình yêu, nó không là hành động của hiểu biết. Hiểu biết chỉ là trải nghiệm, và trải nghiệm không là tình yêu. Trải nghiệm không thể biết tình yêu. Tình yêu hiện diện khi chúng ta hiểu rõ toàn tiến hành về chính chúng ta, và hiểu rõ về chính chúng ta là khởi đầu của thông minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2022(Xem: 8581)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7649)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31259)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 20003)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16474)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10362)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11493)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 11940)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14893)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11674)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567