Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Saanen, 5 tháng tám 1962

10/07/201114:34(Xem: 3194)
18. Saanen, 5 tháng tám 1962

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ TÌNH YÊU VÀ SỰ CÔ ĐỘC
[ON LOVE AND LONELINESS]
Lời dịch: Ông Không 2009

Saanen, 5 tháng tám 1962

Tôi muốn, nếu tôi được phép, nói về sự kết thúc của đau khổ, bởi vì sợ hãi, đau khổ, và điều gì chúng ta gọi là tình yêu, luôn luôn theo cùng nhau. Nếu chúng ta không hiểu rõ sợ hãi, chúng ta sẽ không thể hiểu rõ đau khổ, chúng ta cũng không thể biết trạng thái của tình yêu đó mà trong nó không có mâu thuẫn, không có xung đột.

Để kết thúc đau khổ hoàn toàn là một việc khó khăn nhất khi thực hiện, bởi vì đau khổ luôn luôn theo cùng chúng ta trong một hình thức này hay một hình thức khác. Vì vậy tôi muốn tìm hiểu vấn đề này khá sâu xa; nhưng những từ ngữ của tôi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu mỗi người chúng ta không tự tìm hiểu vấn đề bên trong chính chúng ta, và cũng không chấp nhận lẫn phủ nhận, nhưng chỉ đơn giản đang quan sát sự kiện. Nếu chúng ta có thể làm việc này, thực sự và không chỉ lý thuyết, vậy thì có lẽ chúng ta sẽ có thể hiểu rõ ý nghĩa lạ thường của đau khổ và thế là kết thúc đau khổ.

Qua hàng thế kỷ tình yêu và đau khổ luôn luôn theo cùng nhau, thỉnh thoảng một cái chi phối và thỉnh thoảng cái còn lại. Trạng thái mà chúng ta gọi là tình yêu đó chẳng mấy chốc sẽ qua đi, và lại nữa chúng ta bị trói buộc trong những ghen tuông của chúng ta, những hão huyền của chúng ta, những sợ hãi của chúng ta, những đau khổ của chúng ta. Luôn luôn có trận chiến này giữa tình yêu và đau khổ; và trước khi chúng ta có thể tìm hiểu vấn đề của kết thúc đau khổ, tôi nghĩ chúng ta phải hiểu rõ đam mê là gì.

Đam mê là cái gì đó mà rất ít người chúng ta thực sự hiểu rõ. Điều gì chúng ta có lẽ đã cảm thấy là sự nhiệt huyết, mà đang bị trói buộc trong một trạng thái cảm xúc vào điều gì đó. Đam mê của chúng ta là dành cho cái gì đó: cho âm nhạc, cho hội họa, cho văn chương, cho một quốc gia, cho một người phụ nữ hay một người đàn ông; nó luôn luôn là hậu quả của một nguyên nhân. Khi bạn thương yêu một ai đó, bạn ở trong một trạng thái cực kỳ của cảm xúc, mà là hậu quả của nguyên nhân đặc biệt đó; và điều gì chúng ta đang nói là đam mê không một nguyên nhân. Nó là đam mê dành cho mọi thứ, không phải về cái gì đó, trái lại hầu hết chúng ta đều đam mê về một người hay một vật đặc biệt. Tôi nghĩ người ta phải thấy sự khác biệt này rất rõ ràng.

Trong trạng thái của đam mê không một nguyên nhân, có sự mãnh liệt được tự do khỏi mọi quyến luyến; nhưng khi đam mê có một nguyên nhân, có quyến luyến và quyến luyến là khởi đầu của đau khổ. Hầu hết chúng ta đều quyến luyến; chúng ta bám víu một con người, một quốc gia, một niềm tin, một ý tưởng, và khi mục tiêu của quyến luyến của chúng ta bị lấy đi hoặc mất đi ý nghĩa, chúng ta phát giác mình bị trống rỗng, bị thiếu thốn. Trạng thái trống rỗng này chúng ta cố gắng lấp đầy bằng cách bám víu cái gì khác, mà lại nữa là mục tiêu của đam mê của chúng ta.

Làm ơn hãy tìm hiểu tâm hồn và cái trí riêng của chúng ta. Tôi chỉ là một cái gương trong đó bạn đang nhìn chính bạn. Nếu bạn không muốn nhìn, điều đó cũng được thôi, nhưng nếu bạn có muốn nhìn, vậy thì hãy nhìn ngắm bạn rất rõ ràng, tàn nhẫn, liên tục, bằng mãnh liệt – không trong hy vọng xóa tan những đau khổ của bạn, những lo âu của bạn, ý thức tội lỗi của bạn, nhưng với mục đích hiểu rõ đam mê lạ thường này mà luôn luôn dẫn đến đau khổ.

Khi đam mê có một nguyên nhân, nó trở thành dục vọng. Khi có một đam mê dành cho cái gì đó – cho một con người, cho một ý tưởng, cho một loại thành tựu nào đó – vậy thì từ đam mê đó có mâu thuẫn, xung đột, nỗ lực. Bạn cố gắng thành tựu hay duy trì một trạng thái đặc biệt, hay nắm bắt lại một trạng thái đã hiện diện và qua rồi. Nhưng đam mê mà tôi đang nói không dẫn đến mâu thuẫn, xung đột. Nó hoàn toàn không liên quan đến một nguyên nhân, và vậy là nó không là một hậu quả.

Chỉ lắng nghe; đừng cố gắng đạt được trạng thái mãnh liệt này, đam mê không một nguyên nhân này. Nếu chúng ta có thể lắng nghe đầy chú ý, bằng ý thức của thanh thản đó mà hiện diện khi sự chú ý không bị ép buộc qua kỷ luật nhưng được sinh ra từ sự thôi thúc chân thật để hiểu rõ. Vậy thì tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm ra cho chính mình đam mê này là gì.

Hầu hết chúng ta đều có đam mê rất yếu ớt. Chúng ta có lẽ đầy dục vọng, chúng ta có lẽ đang thèm khát cái gì đó, chúng ta có lẽ đang mong muốn tẩu thoát khỏi cái gì đó, và tất cả việc này có cho người ta một mãnh liệt nào đó. Nhưng nếu chúng ta không tỉnh thức và cảm thấy trong ngọn lửa của đam mê không một nguyên nhân này, chúng ta sẽ không thể hiểu rõ điều mà chúng ta gọi là đau khổ. Muốn hiểu rõ cái gì đó, bạn phải có đam mê, sự mãnh liệt của chú ý tổng thể. Nơi nào có đam mê dành cho cái gì đó – mà sinh ra mâu thuẫn, xung đột – ngọn lửa tinh khiết của đam mê này không thể hiện diện; và ngọn lửa tinh khiết của đam mê này phải hiện diện cho mục đích kết thúc đau khổ, xóa sạch hoàn toàn nó.

Chúng ta biết rằng đau khổ là một kết quả; nó là hậu quả của một nguyên nhân. Tôi thương yêu người nào đó và người đó không thương yêu tôi – đó là một loại đau khổ. Tôi muốn thành tựu mình trong một hướng nào đó, nhưng tôi không có khả năng; hay nếu tôi có khả năng, sức khỏe kém hoặc một yếu tố nào đó chặn đứng sự thành tựu của tôi – đó là một hình thức khác của đau khổ. Có đau khổ của một cái trí nhỏ nhen, của một cái trí luôn luôn xung đột với chính nó, liên tục đang đấu tranh, đang điều chỉnh, đang dò dẫm, đang tuân phục. Có đau khổ của xung đột trong liên hệ, và đau khổ của mất mát người nào đó do chết. Tất cả các bạn đều biết vô vàn hình thức của đau khổ và tất cả chúng là hậu quả của một nguyên nhân.

Hiện nay, chúng ta không bao giờ đối diện sự kiện của đau khổ; chúng ta luôn luôn đang cố gắng lý luận nó, giải thích cho qua nó; hay chúng ta bám vào một giáo điều, một khuôn mẫu của niềm tin mà gây thỏa mãn chúng ta, cho chúng ta sự an ủi nhất thời. Một số người dùng thuốc men, những người khác dựa vào nhậu nhẹt, hay nương nhờ sự cầu nguyện – bất kỳ điều gì để vơi đi sự hành hạ, sự bi thảm của đau khổ. Đau khổ, và nỗ lực liên tục để tẩu thoát khỏi nó, là số mạng của mỗi người chúng ta. Chúng ta không bao giờ suy nghĩ về việc kết thúc đau khổ hoàn toàn, để cho cái trí mãi mãi không còn bị trói buộc trong tự-thương xót, trong cái bóng của tuyệt vọng. Bởi vì không thể kết thúc được đau khổ, nếu chúng ta là những người Thiên chúa giáo, chúng ta tôn thờ nó trong những nhà thờ của chúng ta như là sự khổ đau của đấng Christ. Và dù chúng ta đi đến nhà thờ và tôn thờ biểu tượngcủa đau khổ, hay cố gắng lý luận để xua đuổi đau khổ đi, hay quên lãng đau khổ của chúng ta bằng cách nhậu nhẹt, nó đều cùng một sự việc: Chúng ta đang tẩu thoát khỏi sự kiện rằng chúng ta bị đau khổ. Tôi không đang nói về sự đau đớn thuộc thân thể, mà có thể được giải quyết khá dễ dàng bởi y khoa hiện đại. Tôi đang nói về đau khổ, sự đau khổ thuộc tâm lý mà ngăn cản tánh rõ ràng, vẻ đẹp, mà hủy diệt tình yêu và từ bi. Liệu có thể kết thúc mọi đau khổ?

Tôi nghĩ sự kết thúc của đau khổ liên quan đến sự mãnh liệt của đam mê. Có thể có đam mê chỉ khi nào có tự-từ bỏ tổng thể. Người ta không bao giờ đam mê nếu không có một vắng mặt hoàn toàn của điều gì chúng ta gọi là tư tưởng. Điều gì chúng ta gọi là tư tưởng là phản ứng của vô vàn những khuôn mẫu và những trải nghiệm của ký ức, và nơi nào phản ứng bị quy định này hiện diện, không có đam mê, không có mãnh liệt. Có mãnh liệt chỉ khi nào có sự vắng mặt hoàn toàn của cái “tôi”.

Bạn biết, có một ý thức của vẻ đẹp mà không liên quan đến điều gì là đẹp đẽ và điều gì là xấu xí. Không phải vì rằng núi non không đẹp, hay vì rằng không có một tòa nhà xấu xí, nhưng có vẻ đẹp mà không là đối nghịch của xấu xí, có tình yêu mà không là đối nghịch của hận thù. Và tự-từ bỏ mà tôi đang nói là trạng thái của vẻ đẹp đó mà không có nguyên nhân, và thế là nó là một trạng thái của đam mê. Liệu có thể vượt khỏi cái mà là kết quả của một nguyên nhân?

Làm ơn hãy chú ý trọn vẹn, để nắm được ý nghĩa thay vì ở lại cùng những từ ngữ.

Bạn thấy, hầu hết chúng ta luôn luôn đang phản ứng; phản ứng là toàn khuôn mẫu thuộc sống của chúng ta. Đáp trả đến đau khổ của chúng ta là một phản ứng. Chúng ta đáp lại bằng cách cố gắng giải thích nguyên nhân của đau khổ, hay bằng cách tẩu thoát khỏi đau khổ, nhưng đau khổ của chúng ta không kết thúc. Đau khổ kết thúc chỉ khi nào chúng ta đối diện sự kiện của đau khổ, khi chúng ta hiểu rõ và vượt khỏi cả nguyên nhân lẫn hậu quả. Cố gắng được tự do khỏi đau khổ qua một rèn luyện đặc biệt, hay bằng sự suy nghĩ có mục đích, hay bằng buông thả trong mọi hình thức của tẩu thoát khỏi đau khổ, không đánh thức trong cái trí vẻ đẹp lạ thường, sức sống, mãnh liệt của đam mê đó mà bao gồm và vượt khỏi đau khổ.

Đau khổ là gì? Khi bạn nghe câu hỏi này, bạn đáp lại như thế nào? Ngay lập tức cái trí của bạn cố gắng giải thích nguyên nhân của đau khổ, và đang tìm kiếm một giải thích này đánh thức ký ức của những đau khổ mà bạn đã trải qua. Thế là bạn luôn luôn theo từ ngữ đang trở lại quá khứ hay đang hướng đến tương lai trong một nỗ lực giải thích nguyên nhân của hậu quả mà chúng ta gọi là đau khổ. Nhưng tôi nghĩ người ta phải vượt khỏi tất cả việc đó.

Chúng ta biết rất rõ điều gì gây ra đau khổ – nghèo khổ, bệnh tật, không được thương yêu, và vân vân. Và khi chúng ta đã giải thích vô số nguyên nhân của đau khổ, chúng ta không kết thúc được đau khổ; thực ra chúng ta vẫn chưa nắm bắt được chiều sâu và ý nghĩa lạ thường của đau khổ cũng như trạng thái đó mà chúng ta gọi là tình yêu. Tôi nghĩ cả hai có liên quan với nhau – đau khổ và tình yêu – và muốn hiểu rõ tình yêu là gì, người ta phải cảm thấy sự mãnh liệt của đau khổ. Những người cổ xưa đã nói về sự kết thúc của đau khổ, và họ đặt ra một cách sống được nghĩ là kết thúc đau khổ. Nhiều người đã thực hành cách sống đó. Những thầy tu ở phương Đông và phương Tây đã thử nó, nhưng họ chỉ làm cằn cỗi bản thân họ; những cái trí của họ và những tâm hồn của họ đã trở nên khép kín. Họ sống đằng sau những bức tường của suy nghĩ riêng của họ, hay đằng sau những bức tường của gạch và đá, nhưng thực sự tôi không tin rằng họ đã vượt khỏi và đã cảm thấy sự mãnh liệt của cái sự việc được gọi là đau khổ này.

Kết thúc đau khổ là đối diện sự kiện cô độc của người ta, quyến luyến của người ta, đòi hỏi nhỏ nhen, tầm thường cho sự nổi tiếng của người ta, khao khát được thương yêu của người ta; kết thúc đau khổ là được tự do khỏi tự-quan tâm và sự trẻ con của tự-thương xót. Và khi người ta đã vượt khỏi tất cả việc đó và có lẽ đã kết thúc đau khổ cá nhân của người ta, vẫn còn có đau khổ vô cùng của tập thể, sự đau khổ của thế giới. Người ta có lẽ kết thúc đau khổ riêng của người ta bằng cách đối diện trong chính người ta sự kiện và nguyên nhân của đau khổ – và điều đó phải xảy ra cho một cái trí mà muốn được tự do hoàn toàn. Nhưng khi người ta đã hoàn tất tất cả việc đó, vẫn còn có đau khổ của sự dốt nát lạ thường mà tồn tại trong thế giới – không phải thiếu thông tin, thiếu hiểu biết thuộc sách báo, nhưng sự dốt nát về chính anh ấy của con người. Không hiểu rõ về chính mình là bản thể của dốt nát, gây ra sự mãnh liệt của đau khổ này mà hiện diện khắp thế giới. Và thực ra đau khổ là gì?

Bạn thấy, không có từ ngữ để giải thích đau khổ, cũng như không có từ ngữ để giải thích tình yêu là gì. Tình yêu không là quyến luyến, tình yêu không là đối nghịch của hận thù, tình yêu không là ghen tuông. Và khi người ta đã kết thúc ghen tuông, ganh ghét, quyến luyến, tất cả những xung đột và khốn khổ mà người ta đã trải qua, suy nghĩ rằng người ta thương yêu – khi tất cả việc đó kết thúc, vẫn còn có nghi vấn của tình yêu là gì, và vẫn còn có nghi vấn của đau khổ là gì.

Bạn sẽ tìm được tình yêu là gì, và đau khổ là gì, chỉ khi nào cái trí của bạn đã phủ nhận tất cả những giải thích và không còn đang tưởng tượng, không còn đang tìm kiếm nguyên nhân, không còn đang buông thả trong những từ ngữ hay đang trầm tư cùng những vui thú và những đau khổ riêng của người ta trong ký ức. Cái trí của bạn phải tuyệt đối tĩnh lặng, không một từ ngữ, không một biểu tượng, không một ý tưởng. Và vậy là bạn sẽ khám phá – hay cái đó sẽ hiện diện – trạng thái đó mà trong nó chúng ta đã gọi tình yêu là gì và chúng ta đã gọi đau khổ là gì và chúng ta đã gọi chết là gì là một. Không còn bất kỳ phân chia nào giữa tình yêu và đau khổ và chết; và bởi vì ở đó không có phân chia, có vẻ đẹp. Nhưng muốn hiểu rõ, muốn trong trạng thái ngây ngất này, phải có đam mê đó mà hiện diện cùng lúc với sự từ bỏ hoàn toàn của cái “tôi”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2024(Xem: 431)
Thân-Khẩu-Ý (身-口-意; P: Kāya-Vacī-Mano; S: Kāya-Vak-Mana; E: Body-Speech-Thought) là 3 thứ tách biệt nơi con người, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, Ý là yếu tố có sự tác động đến cả Thân và Khẩu. Nếu một hành động của Thân hay lời nói của Khẩu mà không có Ý tác động vào thì khó mà có kết quả.
19/10/2024(Xem: 405)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
14/10/2024(Xem: 1075)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
04/06/2024(Xem: 3734)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 844)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2841)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2979)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3342)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 6536)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com