Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 13: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 7642)
Chương 13: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XIII

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Trì giới

Khi niệm Phật mà tâm tư toán loạn, vọng tưởng tới tấp, tâm không được tỉnh sáng, là do không giữ đúng giới luật, sinh hoạt hàng ngày thường hay phạm giới. Phải biết có giới mới có định, có định mới có tuệ. Trong tam vô lậu học, giới được dùng làm cơ sở ban đầu. Giới luật là căn bản của tất cả người tu người tu hành. Không có giới luật, sự nghiệp tu hành không thể thành tựu. Vì thế, chúng ta phải khéo léo lấy giới làm Thầy. Đem giới luật của Phật làm mực thước và khuôn mẫu cho sự hành trì trong sinh hoạt của chúng ta.

2. Thường sinh tâm hổ thẹn và sám hối

Chúng ta sinh hoạt hàng ngày rất dễ bị phạm đến giới luật. Vì chúng ta ngu si, nghiệp chướng nặng nề nên mỗi ngày hoặc nhiều hoặc ít, hoặc nặng hoặc nhẹ đều có vi phạm giới luật đã thọ. Vì thế mỗi người cần phải hết sức cẩn thận, luôn xét lại lời nói, cử chỉ và hành động của chúng ta. Trong từng phút từng giây và từng ý nghĩ của chính mình, thường sinh tâm hổ thẹn và sám hối, chúng ta mới có thể diệt trừ tội lỗi, tâm trở nên trong sạch.

3. Hổ thẹn

Người học Phật, cuối cùng có tiến bộ hay không, chỉ xem lại chính mình. Đối với hai chữ “hổ thẹn” làm được nhiều hay ít. Hổ thẹn một phần được một phần lợi ích, thành tựu được một phần đạo nghiệp; hổ thẹn mười phần được mười phần lợi ích, thành tựu được mười phần đạo nghiệp

4. Ngã mạn

Hiểu biết càng nhiều, nếu không khéo thì sự ngã mạn càng cao. Tập khí xấu theo đó sẽ lớn lên, đối với đạo càng ngày càng xa cách. Trong quá trình học Phật chúng ta phải luôn gìn giữ hai chữ “hổ thẹn”. Mãi chân thật, giữ gìn tâm trạng khiêm tốn, không tài năng. Hướng đến tất cả mọi người, tất cả mọi việc để học tập. Điều lương thiện, chúng ta xem là bậc mô phạm; việc xấu ác, phải lấy đó làm tấm gương răn nhắc chúng ta. Nhất thiết không nên cho mình là đúng, cho mình là chuyên môn đã trải qua nhiều lần thành tựu. nếu như thế là phạm đến chỗ mà người học Phật rất kỵ. Ngã mạn về sau sinh quả báo xấu làm chướng ngại thánh đạo. Quả báo này nhất định trốn không khỏi.

5. Hữu lậu

Hữu là có, lậu là phiền não làm cho chúng sinh rơi vào ba đường ác. Hữu lậu là pháp phiền não làm cho chúng sinh rơi vào ba đường ác.

Điều mà người học Phật rất sợ chính là hữu lậu. Việc làm nhọc nhằn, khổ sở, tổn hao mồ hôi và máu huyết cũng không dễ dàng tích luỹ được công đức và phước báu. Nhưng vì tham, sân, si và vô minh nghiệp chướng của chính mình, nên trong sinh hoạt ngày thường, không cẩn thận đã phạm vào giới luật. Vì vậy, tất cả công đức và phước báu đã phạm vào giới luật. Vì vậy, tất cả công đức và phước báu đã tạo theo đó mà mất hết.

6. Phạm giới thành hữu lậu

Người phạm giới là hữu lậu, giữ giới là vô lậu. Giới luật chính là nhân quả. Dù bất cứ lý do gì, khi đã phạm vào giới luật chính đã phạm vào nhân quả. Nhất định sẽ có quả báo không tốt. Vì thế, khi học Phật, chúng ta nhất định phải khéo léo; khi tu hành phải hết sức cẩn thận. Thường luôn quán chiếu và xét lại chính mình. Khéo léo tuân theo giới luật để hạ thủ công phu, đừng để phước báu tu hành nhọc nhằn khổ sở biến thành công đức hữu lậu.

7. Kiểm nghiệm lại lỗi lầm

Thân thể chúng ta sinh ra bệnh tật, trong sinh hoạt luôn gặp phải trắc trở hoặc có lúc công việc không được hài lòng…Khi sự việc không như ý phát sinh, kẻ ngu chỉ biết than thân trách phận, oán trời đất, trách cứ người khác, mượn cớ này nọ để che đậy sai sót của mình. Song người có chí cho rằng nhất định mình có sai lầm việc gì, nhất định đã vi phạm giới luật, đã vi phạm vào nhân quả, mới có sự báo ứng không tốt này. Phải mau kiểm điểm lại lỗi lầm, xét lại mình và thành tâm sám hối, nguyện không phạm nữa.

8. Giới luật

Thời mạt pháp, người tu pháp môn niệm Phật rất nhiều, nhưng người thành tựu hạnh nguyện lại rất ít. Then chốt quan trọng ở đây không cẩn thận giữ gìn giới luật đã thọ. Nếu hay giữ giới, cẩn thận lời nói và hành động, nghiêm khắc kiềm chế sự buông lung chính mình thì tất cả công đức đã có sẽ không tan mất, đạo nghiệp tự nhiên thành tựu. Nếu không giữ giới, không có kỷ luật nghiêm túc, muốn làm gì thì làm, thì tất cả công đức đã tạo sẽ tan mất hết, đạo nghiệp làm sao có thể thành tựu được?

9. Siêng năng hành pháp lễ Phật sám hối

Khi đã phạm giới, nhất định phải có tội và sẽ gánh lấy quả báo xấu. Phương pháp cứu tội duy nhất chính là hết lòng chân thật bày tỏ lỗi lầm và thành tâm sám hối. Phải thống thiết tỉnh xét lại mình, nguyện không phạm lại nữa. Chúng ta cần phải mỗi ngày, ở trước tượng Phật và Bồ-tát, siêng năng lễ lạy và sám hối. Dùng sức mạnh của sám hối để tiêu diệt lỗi lầm sai phạm của chúng ta.

10. Phật pháp suy vi

Điều đáng thương nhất của kẻ phàm phu chính là không giác ngộ. Đã phạm giới công đức tán mất hết nhưng không tự biết. Vì thế, chúng ta cần phải có thiện tri thức chỉ rõ khuyết điểm và lầm lạc của chúng ta. Đáng tiếc vào thời mạt pháp ngày nay, bậc thiện tri thức có thể xem thấy sự hư hỏng của chúng ta lại không có nhiều. Thiện tri thức có thể từng bước chỉ giáo lỗi lầm của chúng ta lại càng ít. Hơn nữa người biết khiêm tốn, lãnh thọ sự chỉ giáo và phê bình của thiện tri thức đã ít lại càng ít hơn. Bởi vậy, Phật pháp phải suy yếu đi. Người có thể tiến bộ và thành tựu đạo nghiệp, hiếm thấy và khó gặp như lông phượng, sừng lân. Nguyên nhân chính là do sự ngã chấp, ngã mạn, không biết hổ thẹn của chúng ta quá nhiều, không chịu khiêm tốn lãnh thọ lời chỉ dạy phê bình của thiện tri thức.

11. Khiêm tốn tự xét mình

Chúng sinh thật đáng thương, do bởi nghiệp chướng ngu si chấp trước, ngã mạn, không biết hổ thẹn xấu hổ, nên khó gặp được thiện tri thức khai thị và chỉ rõ lỗi lầm. Vả lại, chúng sinh vẫn một mực ngoan cố, tự ý làm càn, không coi ai ra gì, để tất cả công đức trôi theo chiều hữu lậu, mà còn chuốc vạ vào thân. Thật mà mười phần đáng thương! Chúng ta phải mau buông xuống tất cả ngã mạn, chấp trước để học tập tâm hổ thẹn cùng đức tính nhường nhịn, khiêm tốn và hạnh tư tỉnh. Như thế mới có thể thực sự ngày càng có công và thu hoặch được lợi ích thực tế trên đường học Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2015(Xem: 12190)
Pháp Tánh hay Pháp Tính có rất nhiều tên ví dụ như Thật Tướng Chân Như, Pháp Giới Tính, … Xin ghi ra đây trích đoạn bằng tiếng Anh để dễ so sánh, tìm ra ý nghĩa của nó. Pháp Tánh:
24/07/2015(Xem: 16033)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
19/07/2015(Xem: 10579)
Khi còn trong phiền não trói buộc thì Chơn Như là Như Lai Tạng. Khi ra khỏi phiền não thì Chơn Như là Pháp Thân. Trong Phật Tánh Luận chữ Tạng có 3 nghĩa như sau: 1/- Chân Như lập ra 2 nghĩa: - Hòa Hiệp: sanh ra tất cả các Pháp “nhiễm”. (2)- Không Hòa Hiệp: Sanh ra tất cả Pháp “thanh tịnh”. Tất cả các Pháp Nhiễm và Thanh Tịnh đều thuộc Như Lai Tạng, tức là Thâu Nhiếp Chơn Như, gọi là Như Lai Tạng. Tức là Chân Như thâu nhiếp tất cả Pháp. Hay gọi Như Lai Tạng là tất cả Pháp cũng cùng ý nghĩa đó.
02/07/2015(Xem: 15331)
Duy Thức học là môn học khảo cứu quan sát Tâm, hay gọi là môn học tâm lý Phật Giáo; nhưng cũng còn gọi là Pháp Tướng Tông, tức nghiên cứu hiện tượng vạn pháp. Như vậy Duy Thức Học cũng có thể gọi là môn học nghiên cứu vừa chuyên về Tâm vừa chuyên về Pháp. Thuộc về tâm, thì môn này đã tường tận phân định từng tâm vương, tâm sở; thuộc về pháp, thì lý giải khảo sát từ pháp thô đến pháp tế, từ hữu vi cho đến vô vi. Một môn học bao gồm hết thảy vấn đề, từ vấn đề con người cho đến vạn vật; từ chủ thể nhận thức đến khách thể là thế gian và xuất thế gian - môn học như vậy nhất định là môn học khó nhất để có thể am tường, quán triệt! Hơn nữa thế gian xưa nay, con người đã không ngừng nghiên cứu khoa học vật chất, mà vẫn chưa có kết quả thỏa đáng, nghĩa là vẫn mãi bận bịu đi tìm, vẫn mãi phát minh bất tận thì đâu còn thời gian và tâm lực để có thể nghiên cứu về Tâm về Thức.
01/07/2015(Xem: 24269)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 11521)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
24/06/2015(Xem: 31405)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 9675)
Bài Tâm Kinh Bát Nhã có tất cả 7 chữ 'Không" trong đó chữ "Không Tướng" đã được đề cập, ngay ở câu văn thứ ba: "Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng..."(Xá Lợi Tử ! Tướng Không của các pháp...). Nếu hiểu 'chư pháp' (các pháp) ở đây chính là các pháp đã vừa được nêu ra ở câu văn thứ nhì ("Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị") thì các pháp này chính là Ngũ Uẩn pháp và chính câu văn kinh thứ nhì này đã khai thị về Không Tướng (và cả Không Thể) của Ngũ Uẩn.
15/06/2015(Xem: 23864)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/06/2015(Xem: 6501)
Các thuật ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]