Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5: Quả báo của sự chế nhạo

06/03/201118:30(Xem: 4944)
Chương 5: Quả báo của sự chế nhạo

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 5: QUẢ BÁO CỦA SỰ CHẾ NHẠO

Theo giáo lý của đạo Gia Tô thì tánh kiêu ngạo là một trong bảy tội lớn nhất của con người. Cũng như tất cả những tín điều khác của đạo Gia Tô, điều này rất lý thú, nhưng dường như hơi cách xa những vấn đề thực tế về sự đau khổ của nhân loại. Tuy nhiên, nếu chúng ta chấp nhận những bằng chứng trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì sự kiêu ngạo có thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất là khi nó biểu lộ bằng sự chế giễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những lời nói gièm pha, chỉ trích, chê bai, dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn, và sẽ mang đến quả báo tương ứng là người chế nhạo sẽ bị một thứ bệnh tật, tai ương, đau khổ không kém người bị anh ta chế giễu!

Những hồ sơ của ông Cayce có ghi chép bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy nguyên ra từ những hành động chế nhạo nói trên. Có điều hơi lạ là sáu trường hợp trong số đó xảy ra trước hết ở La Mã, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô. Về điểm này, một lần nữa chúng ta lại thấy những nhóm người sống trong cùng một thời kỳ lịch sử thường tái sinh cùng lúc vào một thời kỳ khác. Trong số đó có ba trường hợp về bệnh liệt bại.

Trường hợp thứ nhất là của một người đàn bà bốn mươi lăm tuổi, có ba người con. Chồng bà làm một nghề tự do. Năm ba mươi tuổi, bà bị liệt bại cả hai chân và không thể đi đứng vận động gì được cả. Từ đó, bà phải ngồi trên một chiếc xe lăn và phải có người giúp đỡ mỗi khi muốn cử động.

Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân bệnh trạng của bà là một tiền kiếp dưới thời kỳ đế quốc La Mã. Hồi đó, bà là một người trong dòng dõi quí tộc của triều vua Néron và trực tiếp tham gia việc khủng bố những người theo đạo Gia Tô. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói:

– Người này đã cười khi thấy những người khác bị hành hình trên vũ đài, và bây giờ người này phải chịu cảnh đau khổ tương tự như của những người ấy!

Trường hợp thứ hai, có lẽ là trường hợp đau khổ nhất trong tập hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba mươi bốn tuổi, bị liệt bại từ năm lên sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu vẹo xương sống. Người cha chẳng những rất thản nhiên với bệnh trạng của bà, mà còn lấy hết tiền bạc của bà dành dụm được trước đó. Số phận của bà càng hẩm hiu hơn nữa vì hai cuộc tình duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị tử trận trong cuộc Thế chiến thứ nhất. Sau đó bà đính hôn với một người đàn ông khác, nhưng người này lại bị đau nặng và khi vừa khỏi bệnh thì liền cưới ngay cô nữ y tá đã săn sóc anh ta trong bệnh viện! Ngoài ra những đau khổ về thể xác và tình cảm trên đây, còn thêm nào là những cảnh tượng gây gổ trong gia đình giữa cha mẹ, một đời sống cô độc thiếu thốn ở thôn quê, và một lần té ngã trên những bậc thang bằng đá, làm cho bà phải nằm liệt giường và bị thêm một tật khác ở xương sống: người ta không thể tưởng tượng một cuộc đời đau khổ hơn nữa!

Nguyên nhân của tình trạng này thuộc hai kiếp về trước ở đế quốc La Mã. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết:

– Người này thuộc về dòng dõi nhà vua Palatius, và thường đến vũ đài xem những cuộc đấu võ bắt buộc giữa các tội nhân, hoặc giữa một tội nhân với một con thú dữ. Sự đau khổ hiện thời phần lớn là vì người này đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yếu đuối bất lực của những tù nhân bị thú dữ xé xác trên vũ đài!

Trường hợp thứ ba là của một nhà sản xuất phim ảnh, bị chứng liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện thời hãy còn có tật ở chân. Nguyên nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở đế quốc La Mã. Khi soi kiếp, ông Cayce cho biết:

– Người này thuở xưa làm lính đao phủ của nhà vua, và đã cười cợt chế nhạo những kẻ tỏ ra sợ sệt hoặc những người bị ngã quỵ trên vũ đài dưới ngọn đao hành tội của anh ta. Anh ta đã gây tội ác không chỉ vì phải làm phận sự của người đao phủ, mà còn vì đã khinh bỉ chế nhạo những người theo một lý tưởng tôn giáo. Trong kiếp này, anh ta phải mang một thể xác tàn tật để trải qua những kinh nghiệm đau khổ mà các nạn nhân xưa kia của anh ta đã chịu đựng.

Dưới đây là bốn trường hợp lý thú mà sự chế nhạo lại bị những quả báo khác hơn là bệnh liệt bại.

Trường hợp thứ nhất là trường hợp của một thiếu nữ bị chứng lao xương. Trong kiếp trước đây, cô có mặt trong nhóm người đầu tiên đến khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bệnh trạng của cô được truy nguyên ra từ một kiếp trước nữa ở La Mã. Hồi đó, cô thuộc dòng quí tộc dưới triều vua Néron, và hay mua vui bằng cách đến xem những cảnh hành tội tín đồ đạo Gia Tô trên các vũ đài. Cảnh tượng một thiếu phụ bị móng vuốt sư tử cào rách một bên hông đã làm cho đương sự vô cùng vui thích và cười đùa một cách khoái trá!

Trường hợp thứ hai là một thiếu nữ mới mười tám tuổi, lẽ ra đã có một vẻ đẹp quyến rũ nếu không bị béo phì! Các bác sĩ y khoa nói rằng đó là do một tuyến nội tiết hoạt động quá độ. Cuộc khám bệnh bằng thần nhãn của ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch trong sự hoạt động của tuyến nội tiết; nhưng một cuộc soi kiếp sau đó tiết lộ rằng chứng bệnh của cô ta có một nguyên nhân sâu xa hơn, là một chứng bệnh về nhân quả. Hai kiếp trở về trước, cô là một lực sĩ ở thành La Mã, nổi tiếng trong môn điền kinh và có vẻ đẹp cân đối của thân hình lực lưỡng. Nhưng người này hay chế nhạo những lực sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về sự khéo léo lanh lẹ cũng như không có sự cân đối vóc dáng.

Trường hợp thứ ba là của một thanh niên hai mươi mốt tuổi, theo đạo Gia Tô. Cha mẹ anh ta muốn cho anh sau này trở nên một giáo sĩ; nhưng anh ta thấy rằng điều đó không hợp với sở thích của mình. Anh ta bèn từ chối không chịu nghe theo. Thế rồi anh ta phát hiện ra mình mắc phải bệnh đồng tính luyến ái. Anh ta bèn đến nhờ ông Cayce soi kiếp, và được biết rằng trong tiền kiếp dưới một triều vua ở nước Pháp anh đã từng là một họa sĩ chuyên về lối vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét bút sắc sảo và linh động, người này thường hay vẽ những cảnh luyến ái giữa những người đồng tính với nhau để làm trò cười cho thiên hạ. Cuộc soi kiếp kết luận như sau:

– Anh chớ lên án kẻ khác nếu anh không muốn bị lên án. Anh cười người khác bao nhiêu, anh sẽ phải bị người cười bấy nhiêu, và anh lên án kẻ khác về điều gì, thì chính anh sẽ mắc phải điều đó!

Trường hợp thứ tư là một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi mười sáu tuổi, làm cho anh ta bị đứt tiện ngang tủy xương sống. Các bác sĩ chuyên môn đều nói rằng anh ta sẽ không thể sống được, nhưng rốt cuộc anh vẫn sống sót. Anh ta bị bại liệt hoàn toàn cả nửa thân mình, từ đốt xương sống thứ năm trở xuống và kể từ khi đó không thể rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc anh ta được ba mươi ba tuổi, nghĩa là mười bảy năm sau khi tai nạn xảy ra, mẹ anh ta đến nhờ ông Cayce soi kiếp cho con mình. Cuộc soi kiếp cho biết rõ hai tiền kiếp: Một kiếp vào thời Cách mạng ở Bắc Mỹ, khi đó người này phục vụ trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu tú và can đảm. Do kinh nghiệm trong kiếp đó mà kiếp này anh ta có được những đức tính kỷ luật, trật tự, yêu đời và khả năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mã vào đầu Công nguyên, người này đã tạo ra cái nhân của thảm trạng hiện tại. Hồi đó anh ta là một người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái trá mà nhìn thấy sự đau khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành hình ở pháp trường. Anh ta đã từng thi đấu trên vũ đài, và về sau anh ta thường nhìn xem những địch thủ của mình chống chọi với các con thú dữ. Anh ta đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc, nhưng không chút động lòng. Kết quả là trong kiếp này anh ta phải tự mình chịu đựng sự đau khổ, và cũng phải tập chịu đựng một cách thản nhiên nhưng với một mục đích khác hẳn.

Có điều lý thú là trong những trường hợp kể trên, gồm có ba người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bệnh lao xương, một người béo phì, một người có bệnh đồng tính luyến ái, một người giập tủy xương sống, tất cả là bảy người nhưng không có trường hợp nào là bệnh di truyền!

Trong mỗi trường hợp, bệnh trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự đã sinh ra đời, ở vào khoảng giữa năm lên một và năm ba mươi sáu tuổi. Trong một trường hợp, bệnh tật do tai nạn xe hơi gây ra. Nhưng dầu thế nào, phía sau cái nguyên nhân hiển hiện vẫn còn ẩn khuất một nguyên nhân sâu xa hơn. Khi chúng ta nhìn thấy trong một tai nạn xe cộ, có người bị thiệt mạng, có người lại sống sót, có người bị thương tích nặng nề, có người lại không bị một vết trầy da... chúng ta thường xem những điều đó như một sự may rủi, tình cờ. Nhưng nếu ta xét những trường hợp kể trên thì thấy rằng dường như có sự tác động của một sức mạnh vô hình, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai nạn xảy ra bất thình lình. Và như thế những quả báo xảy đến cho mỗi người đều đúng luật công bình, không mảy may sơ sót.

Mới nghe qua những trường hợp kể trên, người ta thấy rằng dường như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng nề đối với một việc không quan trọng như là một tiếng cười nhạo, nhưng nếu chúng ta suy xét kỹ thì sẽ thấy quả thật có sự công bằng. Một người đùa cợt nhạo báng trước sự đau khổ của kẻ khác tức là kết án người này về những hoàn cảnh đau khổ của họ mà không hề cảm thông được cái nguyên nhân ẩn tàng. Người ấy khinh bỉ quyền tự do của người khác, dầu cho đó là sự tự do lỗi lầm mà mỗi người đều phải trải qua để rút ra những bài học kinh nghiệm tự thân. Người ấy chà đạp, dày xéo cái nhân cách, cái giá trị và tính cách thiêng liêng của mỗi con người, dầu rằng con người ấy có bị rơi vào sự đốn hèn, sa đọa hay lố bịch đi chăng nữa. Ngoài ra, người ấy còn rơi vào sự tự tôn khi cho rằng mình cao quý hơn kẻ mà mình đang chế giễu đùa cợt.

Trong sự chế giễu đùa cợt, có một hình thức tự tôn rất bỉ ổi làm cho đương sự cách biệt rất xa với lòng nhân ái, với tình thương bao la đối với nhân loại và vạn vật.

Những điều kể trên làm cho ta phải nhớ đến những giáo lý răn dạy người đời, được chứa đựng trong một quyển sách về đạo lý cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng thật là hữu phước thay cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay nhạo báng đùa cợt. Tác giả bộ Thánh Thi đã tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi ghi lại những lời này:

– Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi phải gây tội lỗi vì cái lưỡi.

– Ngươi chớ xét đoán kẻ khác nếu ngươi không muốn bị người khác xét đoán! Vì ngươi sẽ bị kết án cũng như ngươi đã kết án kẻ khác vậy.

Đức Jesus cũng nói rằng:

– Kẻ nào mắng người khác là “đồ ngu” sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn lửa địa ngục!

Xét về những trường hợp mà sự chế nhạo đùa cợt bị mang lấy quả báo vô cùng thảm khốc như đã kể trên, thì lời nói của đức Jesus hẳn là có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm lý vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2024(Xem: 391)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 294)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 1404)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 2618)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 1174)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 1250)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1785)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 5026)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 11138)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 5550)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567