Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

11/01/201115:39(Xem: 6203)
19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

VÀI NHẬN XÉT VỀ NGHI LỄ TRONG PHẬT GIÁO

Nghi lễ là một bộ phận sinh hoạtkhông thể thiếu được trong Phật giáo. Tuy nhiên, sinh hoạt đó gần như chiếm hếtthì giờ trong đời sống người xuất gia hiện nay! Nếu nghi lễ không được đặt đểtrong khuôn khổ chính đáng của Phật pháp, không được dùng với mục đích mượnhình thức để tuyên dương Phật pháp, dẫn kẻ sơ cơ vào đạo, dùng nghi lễ để điềuhòa tình cảm và lý trí, làm sao cho con người được nhịp nhàng tiến bộ như ngườixưa chế ra nó, thì nghi lễ sẽ thiếu năng lực đưa người vào chánh đạo, và có tácđộng xấu đến tâm lý, sẽ gây ngộ nhận đối với quần chúng. Nghi lễ khi đã khôngđi đúng quỹ đạo làm phương tiện phụng sự đạo pháp, chắc rằng người đời sẽ mãicho đạo Phật là mê tín, dị đoan, thoái hóa, ru ngủ quần chúng.

Nói như thế, nhưng Phật giáo có nênbỏ hẳn nghi lễ được không? Theo tôi, không thể được. Vì tất cả các tôn giáo,đoàn thể giữa thế gian này không ai là không dùng nghi lễ để phục vụ cho tínngưỡng của mình. Nếu Phật giáo bỏ phần đó tức là đã bỏ rơi một số người muốnquay về với Chánh pháp. Hơn nữa, đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, dùng bốnvạn tám ngàn pháp môn phương tiện để đưa người đến bờ giải thoát. Đức Phật,ngoài giảng dạy trực tiếp cho các Tỷ-kheo, Tỷ kheo-ni, các nam nữ cư sĩ, Ngàicòn lấy tâm truyền tâm cho Tôn giả Ca-diếp gọi là "Niêm hoa vi tiếu".Kinh luận Phật giáo Đại thừa thường hay nhắc câu chuyện: Một hôm, trong hộichúng đông đảo, đức Thế Tôn không nói gì khi Ngài ngồi trên Pháp toà, im lặngnhư Chánh Pháp. Thính chúng ai nấy cũng im lặng. Lúc ấy Thế Tôn nhẹ nhàng đưamột cành hoa lên trước đám đông, hội chúng không ai hiểu gì trước cử chỉ có ýnghĩa của đức Thế Tôn. Chỉ có Tôn giả Ca-diếp im lặng mỉm cười và Thế Tôn mỉmcười hoan hỷ. Câu chuyện lấy tâm truyền tâm chỉ có một nụ cười trực ngộ giảithoát là như vậy, cho nên trong Phật giáo, ngoài phần tâm truyền phải có phầncông truyền thì mới tùy cơ giáo hóa chúng sinh được. Trong phần công truyền,hình thức nghi lễ là một, và thực tế nó đã có một nhiệm vụ lớn lao, cảnh tỉnhđa số quần chúng mà căn cơ chỉ duyên cảm để tin Phật trước khi cần hiểu đểtheo.

Nghi lễ Phật giáo có công năng tốtđẹp như thế, vậy thì tư cách của người thi hành nó phải như thế nào để quầnchúng Phật tử và người đời khỏi hiểu lầm là Phật giáo lợi dụng hình thức nghilễ để buôn bán thánh thần? Theo tôi, nghi lễ ngày nay cần chú ý các mặt sauđây:

- Tư cách người thi hành lễ phảixứng đáng, để gây sự tôn kính và tin tưởng Tam Bảo trong lòng mọi người.

- Tránh mọi hình thức rườm rà, thiếutrang nghiêm trong khi hành lễ. Phải giữ điều cần yếu khi hành lễ là ThànhtâmKính Phật.

- Không xen lẫn những hình thức nghilễ của ngoại đạo vào Phật giáo, hoặc đem nghi lễ Phật giáo thi thố ở những nơità đạo. Nghĩa là phải nhận thức đại cương về các nghi lễ, trong đó thứ nào nêntránh và thứ nào nên theo. Thiết nghĩ, chúng ta nên chia ra các mục sau đâytrong nghi lễ Phật giáo.

1. Thờ tự

Thờ tự có nhiều ý nghĩa. Thờ vớitính cách tri ân như thờ cha mẹ, sư trưởng. Thờ với tính cách tôn kính như thờcác vị anh hùng hiền triết trong lịch sử. Đối với người xuất gia, khi làm lễthọ giới pháp của Phật chế, trước hết, họ phải làm lễ lạy tạ cha mẹ, từ đó vềsau trên danh nghĩa là một người "nhân thiên nhãn mục", không còn trởlại bái phục quân vương, phụ mẫu nữa. Tuy nhiên, người xuất gia cũng luôn luôntưởng niệm các vị ân nhân, nhất là ân cha mẹ và cầu nguyện hết thảy đều đượcsiêu sanh Lạc độ. Duy nhất, với tính cách vừa tri ân vừa tôn kính đối với bậcĐạo sư chỉ đường thoát khổ, người xuất gia nên thờ Tam Bảo mà thôi. Nhưng Tam Bảotheo quan niệm Bắc tông và Nam tông khác nhau. Theo quan niệm Nam tông thì chỉthấy Phật trong một đời. Khi ngài nhập diệt rồi thì Phật thân đã an trú trongcảnh Niết-bàn, nhưng họ tin vào Phật, họ tín ngưỡng, tôn thờ như Phật còn tạithế. Vậy nên, các nước theo Nam tông như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến điện,Tích Lan... họ thờ Phật là cốt để tri ân Đấng giáo chủ ban bố Chánh Pháp chochúng sinh đã qua đời, hơn là để mong cầu cảm ứng. Trái lại, theo quan niệm Bắctông, với pháp nhãn đạt quang, thấy Phật khắp cả mười phương, thông suốt tươngtục vô thỉ vô chung, ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai không gián đoạn tâm Phậttrong mỗi người thờ Phật như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật bản, Đại Hàn, Mông Cổ...Vì vậy, họ thờ Phật vừa để kỷ niệm, mà cũng vừa cầu sự cảm ứng gia hộ cho đệ tửtrên bước đường tu tập. Họ quan niệm: Phật thường trú thế gian, nên một khitượng Phật đã tôn thờ trên toà sen tức xem như Phật còn tại thế, Ngài luôn luônnhìn thấy hành động của đệ tử mà cảm ứng đạo tâm, hiển hiện Phật lực để an ủi,khuyên răn và gia trì hộ niệm.

Thế nhưng, ở Việt nam chúng ta ngàynay vấn đề thờ tự đã trở nên phức tạp nhiều. Một ngôi chùa đúng lý để thờ TamBảo hoặc thờ Tam Thế Phật nhưng nơi lại thờ luôn Quan Thánh, Ngọc hoàng, Thánhmẫu, Thập điện như nhiều chùa thuộc khu vực miền Nam và miền Trung. Thờ luôn cảthánh mẫu thì nhiều nhất là các chùa miền Bắc. Đó là chưa nói thờ nhiều hìnhtượng khác không dính dáng gì đến đạo Phật. Thế gian, một số người cho rằng,bất cứ tượng nào, hễ lọt vào mắt nhà chùa cũng trở nên linh thiêng, đưa vàochùa thờ được cả, thậm chí còn có cả ông địa nữa. Tệ hại hơn có người không thờtại chùa, lại bày vẽ a tòng những nơi thờ thiếu trang nghiêm, có vẻ tà mị yêuquái, mê tín dị đoan...

Đau lòng thay! Một ngôi chùa đáng lýđể làm nơi tập Chúng tu hành, hoằng dương Chánh pháp, lại biến thành một ngôichùa riêng độc quyền chiêm ngưỡng, hoặc lấy đó làm nơi cúng kiến để nuôi thân.Dầu có nơi khá hơn, trong chùa cũng thờ Phật, nhưng lại thiếu tấm lòng thànhkính, tôn trí những hình tượng Phật và Bồ-tát không có tướng hảo trang nghiêm,lại còn treo những ảnh tượng hình thù kỳ quái ở hai bên bàn thờ, cắm những tờbùa, câu chú trước điện Phật. Thật là một điều tội lỗi lớn, như trong kinh TạoTượng đã nói. Với những ngôi chùa như vậy, mục đích là chỉ biết cúng kiến, nàođâu phải vì vấn đề giải thoát sanh tử đại sự, tập Chúng tu học cầu mong giảithoát. Thảm thương thay! Một lối thờ cúng như vậy lại làm cho Đạo Phật suy yếubiết dường nào.

2. Cúng kính

Đã có thờ tất nhiên có cúng. Vì nhớân, trọng nghĩa mà cúng, vì linh khí kẻ mất người còn giao cảm nhau mà cúng.Nhưng với người xuất gia thì thường chỉ cúng Tam Bảo mà thôi. Ngoài ra, vì sựlợi tha và báo hiếu, người xuất gia có thể cúng vọng tiến linh, cúng thí thực,cô hồn, kỳ an, kỳ siêu. Tuy nhiên, trong những cách cúng nói trên, một số ngườiđã quá lạm dụng nghi lễ, biến nó trở nên phức tạp và cầu kỳ, khiến cho quầnchúng cảm thấy nhà Sư là ông thầy cúng nhiều hơn là một vị tu hành để truyền báChánh pháp. Dưới mắt Phật tử và quần chúng đối với các nhà Sư trên, hầu như mụcđích của nhà Sư là cúng, cho đến chí nguyện của nhà Sư cũng chỉ cúng mà thôi.

Trong thời trước, tôi thấy thế gianbiết cúng một chuyện thì nhà Sư biết cúng trăm chuyện, thế gian biết một vịthần thì nhà Sư biết đến trăm vị thần. Ngoài lối cúng kiến nói trên, nhà Sư cònthạo cúng đất, cúng sao, cúng nam thương, yểu tử, cúng giải đàn oan, sai phan,sai phướng, cúng ngũ hành, thổ địa, hạ khoán, sai muội, cúng thánh, cúng thần,cúng tiên nương, Tôn giả, bổn mạng, bà mẫu... Lại còn cúng tốt vườn, tốt đất,tốt nhà, tốt bếp, cúng đưa ông Táo về trời... Bởi vậy chốn Già-lam mất hẳn tínhcách trang nghiêm thanh tịnh, không thể tập Chúng tu hành, tuyên dương chánhgiáo. Ngược lại, chùa trở thành nơi tập trung mọi sự cúng kính vì lẽ này hay kếnọ. Thậm chí có nơi còn khuyên tín đồ thờ cúng, lạy lục quỷ thần hơn lạy Phật,mà quên đi rằng: Người Phật tử đã quy y Tam Bảo là phát nguyện: Quy y Phật,thề không quy y thiên thần quỷ vật.Nếu không tỉnh ngộ, chánh pháp vì vậycàng xa, tà pháp càng gây hoạ cho người. Thật xót thương thay!

3. Lễ phục

Theo Phật chế, ba pháp y là áo mặcduy nhất của Tăng đồ, và khi thọ giới, Tăng-già đã nguyện mặc y phấn ảo, một ytrong ba y để làm trang phục hoạt dung hàng ngày như thuyết pháp, hành lễ, thọtrai... Vì đó là y phước điền, y giải thoát, không gì hơn nữa, miễn là giới đứctinh nghiêm thì đó là sự trang sức, là lễ phục đẹp nhất để cúng dường Tam Bảovậy.

Nay vì quốc độ, và tùy theo phongtục khác nhau, Phật giáo Bắc tông đã cải hóa theo thế nghi, tạo thành một lốilễ phục rườm rà hơn trước. Khi đến Việt Nam, nó lại cải hóa thêm một lần nữa.

Một chuyện đau lòng mà vào thời tôiđã chứng kiến, đó là sự phục sức lai hóa đến mức khó chịu. Thế nhưng nó vẫn cứlà cái mẫu lai tạpcủa thời đại trong Phật giáo. Những nhiễu y viền kimtuyến, nhưng đôi giày Tàu gắn bông đỏ, được mang vào một cách trịnh trọng và tỏvẻ sang trọng hào nhoáng trong mỗi kỳ đại lễ. Trong những lễ này, dẫu ai tuhành cho mấy mà thiếu cái y kim tuyến, đôi giày Tàu thì cũng phải nhường chỗcho người có nó đứng làm chủ lễ. Lẽ tất nhiên, khi mang chiếc y đẹp thì nó bắtngười mang phải nhớ nó hơn nhớ Phật, chú trọng mình hơn trọng người khác. Vìvậy, buổi lễ thiếu hẳn tinh thần cao quí vốn có của nó. Nhớ lại lời di huấn củaPhật: Pháp dục diệt thời ca-sa biến vị ngũ sắc, thì hiện trạng y phụcnày thật đáng buồn! Tôi nghĩ, những lễ phục, nhạc điệu đơn thuần mà đứng đắn,điều hòa mà tôn nghiêm có lẽ giữ cho buổi lễ tăng phần trang trọng lợi lạc hơn.

4. Truyền giới

Lễ truyền giới cũng là lễ thườngxuyên và thiết yếu của Tăng-già như lễ truyền giới Tam qui, Ngũ giới, Bát quantrai giới, Cụ túc giới và Bồ-tát giới, nhưng cũng phải theo quy tắc đã chỉ dạytrong các bộ Đại học Hoằng giới, Yết-ma Chỉ nam, Thọ giới Nghi Quỷ hoặc trongLuật tạng; và người truyền cũng như người thọ phải thành tâm thành kính, biếttôn trọng giới thể mới được. Nếu không thì lễ thọ giới chỉ là một kiểu mẫu thờitrang, trong đó người truyền không biết truyền gì, còn người thọ không biết thọgì, thế mà vẫn truyền, vẫn thọ.

Khi sắp Niết-bàn, đức Phật đã ân cầndặn dò: "Giới Ta còn thì như Ta còn, giới Ta còn thì đạo ta còn". Nhưthế, truyền giới là lễ rất quan trọng định đoạt sự nghiệp còn mất của Phậtgiáo.

Tóm lại, theo tôi: Nghi lễ có côngdụng gần quần chúng, làm phương tiện tiên phong để truyền bá đạo Phật. Thếnhưng, một khi vai trò tiên phong đã không đi đúng pháp, không hướng người theochánh pháp thì chỉ dẫn người vào ma đạo mà thôi. Vậy để văn hồi địa vị cao cảcủa đạo Phật, tất cả Tăng giới phải chỉnh đốn hết thảy mọi mặt mà trong đó cócả nghi lễ. Về nghi lễ, phải chỉnh đốn như thờ tự đơn giản, sự cúng kính phảitrang nghiêm, gạt bỏ những lối thờ cúng thần đạo ra ngoài, lễ phục cũng như tưcách người thực hành nghi lễ, đều phải chỉnh đốn đúng Luật và trang nghiêm mớimong gây được thiện cảm và tín tâm trong lòng người muốn quay về với đạo.

Tôi hy vọng những điều nhận xét trênđây được chư Tăng, Ni đồng cảm và nếu thấy sai thì nên sửa chữa. Tôi cũng mongGiáo hội sẽ sớm đưa ra các nghi thức hành lễ chung cả Tăng tín đồ toàn quốc ápdụng, hầu đem lại lợi lạc cho Phật giáo vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2022(Xem: 36566)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 25315)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21215)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13379)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 14922)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15072)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17739)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16739)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5030)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21075)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]