Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Thường

10/05/201205:36(Xem: 4299)
Vô Thường

VÔTHƯỜNG

HòaThượng Thích Thiện Siêu

Người đời khi đã phát nguyện quy y Tam Bảo là họ đã an trú trong ngôi nhà Như Lai, vìđó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất. Chánh pháp Như Lai là hào quang chân lý,giúp cho chúng sanh phân định được đâu là tính chất mê muội, luân hồi và đâu làgiác ngộ, giải thoát. Chánh pháp Như Lai còn soi sáng cho chúng sanh phá tanmàn vô minh điên đảo để dứt trừ mọi sai lầm đau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cúcó dạy: "Vì sợ hãi bất an mà đến quy y thần núi, quy y thần cây, quy ymiếu thờ thổ thần nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy y tốithượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Trái lại quy y Phật, quy yPháp, quy y Tăng, phát trí tuệ chân chính, hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biếtkhổ nhân, biết khổ diệt và biết tám chi Thánh đạo diệt trừ khổ não; đó là chỗquy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y như vậy, giải thoát hết đaukhổ".

Vìkhông nhận chân đúng lời Phật dạy, nên chúng sanh sống trong cảnh vọng tưởng màkhởi tà kiến: vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã, không thanh tịnhchấp là thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc, nên bị luân hồi và đau khổ triềnmiên.

Tấtcả mọi sự vật trong thế gian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng luônluôn sanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giới không một vậtnào tồn tại vĩnh viễn và có thể đứng yên một chỗ; tất cả đều vô thường, khôngnhững vô thường trong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từng sát-nasanh diệt.

Đốivới con người cũng vậy, hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai soi gương lại đãthấy bạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấy nếp nhăn nheo.

Vũtrụ, sơn hà, đại địa, dù rất to lớn khiến chúng ta tưởng lầm nó là kiên cố,nhưng thật ra nó cũng chịu sự biến hoại vô thường không kém. Hòn núi kia khichúng ta chưa sanh nó đã có, đến khi chúng ta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng tatưởng hòn núi đó là thường; cho đến của cải vật chất, nhà cửa chúng ta cũngtưởng lầm như thế. Vì tưởng lầm nên chúng ta quay cuồng trong vòng điên đảo,đem cái tâm tham, sân, si để giành giựt lấy những gì chúng ta cho là quý, làthường, là chân thật, nên mới gây ra biết bao đau khổ xấu xa, thậm chí đôi lúccòn giành giựt nhau từng đồng bạc, từng chút địa vị, từng lời ăn tiếng nói,từng bước đi, từng cử chỉ... Đến như cái thân của chúng ta do tứ đại (đất,nước, gió, lửa) hợp thành, do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cấu tạonên, từ khi cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, không biết bao nhiêulần biến chuyển đổi thay cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta cũng thay đổitrong từng giờ, từng khắc mà chúng ta không hay, không biết.

Thânthể của mọi người đều vô thường như thế - Đôi lúc chúng ta cũng biết như thế,nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong thân của chúng ta tồn tại mãi mãi, tại vì lòngtham, chấp ngã, nên chúng ta thấy "ta" là quý hơn tất cả mọi người,chỉ có "ta" mới đáng được trọng vọng, khen ngợi, còn người khác thìkhông nên trọng vọng, khen ngợi. Chính là vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganh tthamlam của chúng ta mà ra.

Vảlại trong ta có những lúc tham, lúc giận, lúc si, nhưng cũng có những lúc từbi, hỷ xả, tâm muốn bố thí giúp ích mọi người. Vậy nếu nói lúc tham là ta vàlúc giận, lúc si, lúc bố thí, lúc từ bi, hỷ xả cũng là ta; thế thì, chính trongmột bản thân ta hóa ra có không biết bao nhiêu cái ta. Thử hỏi trong những cáita đó cái nào đích thực là ta? Khi ta tham lam thì cái tham đó thật là ta; khita giận, cái giận đó thật là ta, hay khi ta kiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn, tậtđố đó là ta? Nếu nói tham là ta thì ta sẽ là con người tham mãi không bao giờthay đổi được! Nếu nói kiêu mạn, tật đố là ta, thì kiêu mạn tật đố không baogiờ thay đổi được! Nhưng không, dù có kiêu mạn, tật đố nhưng khi biết tu hành,phá trừ kiêu mạn, sống một cách khiêm tốn, thì có thể thay đổi được. Dù thamlam nhưng nếu hiểu được đạo lý thì cũng có thể chuyển đổi được lòng tham lam ralòng bố thí.

Rõràng, tâm của chúng ta luôn luôn thay đổi, thân thể của chúng ta cũng thay đổikhông ngừng, không có lúc nào thật là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tự nghĩ tađây là ta, thì lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi. Bởi vì trong lúc ta nói tađây, thì chính ảnh tượng mà ta tưởng là ta đó cũng đổi khác đi rồi. Tâm hồn tagiờ này không còn như giờ phút trước. Cho nên, vừa mới mở miệng nhắc đến cái tathì cái ta đó đã bay đi mất. Thế mà vì không hiểu, cho nên cứ đinh ninh rằng:"Ta đây, ta quý hơn tất cả, muốn được tất cả mọi người tôn trọng, khenngợi, và tuyệt đối không ai được chê ta hết. Nhưng ngược lại ta cũng không muốntôn trọng và khen ngợi ai cả". Cái ta nó làm cho con người điên đảo, hẹphòi như vậy đó.

Chonên, chúng sanh đau khổ là vì vô ngã mà chấp là ngã, không ta mà chấp thật làta. Ai biết nhìn kỹ thân thể của mình, qua pháp môn "Bất tịnh quán"như đức Phật đã dạy thì sẽ thấy toàn thân chất chứa những đồ bất tịnh, nếu bỏlớp da ngoài thì ai cũng dơ bẩn như ai. Cái bất tịnh ấy đã có từ trong bàothai, và khi lọt lòng mẹ cũng đã bất tịnh rồi. Dù được trang điểm bao nhiêucũng chỉ là cái thân bất tịnh, cho đến khi nhắm mắt tắt thở, nó cũng là bấttịnh. Đối với cái thân bất tịnh này rõ ràng như vậy mà chúng ta không nhậnthấy; ngược lại còn chấp cái thân này là tịnh, nên nâng niu, chiều chuộng, trauchuốt nó quá đáng. Vì mù quáng đối với thân vô thường, lại cho là thường nên conngười luôn luôn đau khổ vì nó.

Ngàyxưa có nàng Liên Hoa Sắc, khi nghe đức Phật dạy về đạo lý vô thường, rằng thânthể bất tịnh, chúng sanh bất tịnh, hữu tình bất tịnh, thì cô ta liền phát tâmmuốn đi tu. Nhưng trên bước đường đi tu ngang qua một dòng sông, cô xuống sôngrửa mặt, nhìn thấy bóng mình dưới nước có gương mặt quá đẹp, cô nghĩ thầm:"Mình đẹp như thế này mà đi tu thì uổng quá!" Cô bèn quay trở lại.Bạn bè gặp cô trở về bèn hỏi: "Tại sao trước kia chị phát tâm dõng mãnh,muốn đến đức Phật để cầu xin xuất gia, tu hành, bây giờ chị lại thối chí trởlui là thế nào?" Cô ta trả lời rằng: "Ôi! Tôi đẹp quá như thế này màđi tu làm gì cho uổng!" Họ hỏi: "Vậy chị đẹp như thế nào?" Cô tatrả lời: "Tôi soi mặt dưới nước thấy cái bóng của tôi phản chiếu dưới đó,hết sức là đẹp".

Quacâu chuyện trên, chúng ta thấy rằng: Cái đẹp của cô ta chỉ là cái đẹp phảnchiếu lại lòng tham đắm xác thân chứ đối với người khác chưa chắc đã đẹp, vàđôi với loài cá dưới nước khi thấy bóng cô ta thì phải chạy trốn xa. Cô ta thấycái bóng mình dưới nước cho là đẹp, vì nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờ nóđang xấu, đang hủy hoại từ từ mà cô ta không biết không hay!

Chonên trong kinh Xà Dụ, đức Phật dạy:

"Nàycác Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường? Bạch Thế Tôn, vô thường. Cái gì vôthường là khổ hay lạc? Bạch Thế Tôn, khổ... Do vậy này các Tỷ-kheo, cái gìkhông phải của các ngươi, hãy từ bỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài chocác ngươi. Trong bốn sự thật mà đức Phật dạy, sự thật đầu tiên là khổ (dukkha).Ngài nói cuộc đời dù có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc khôngthoát ly sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biết bao nhiêu cái khổtrong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ. Đó là cái khổ thường tình ai cũngnhận thấy, cái khổ tự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không ai tránhkhỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã không cất ba tiếng khóc oa oaoa khi mới lọt lòng. Nếu một người bịnh không khổ thì họ đã không rên xiết.Người già không khổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một người chếtkhông khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chếtkhổ là một sự thật hiển nhiên mà đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đócòn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, những người mình thích, những đồvật mình ham muốn tưởng rằng đó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền vớimình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vì luật vô thường, nhữngthứ đó nó rời khỏi tầm tay, không cách gì cầm giữ lại được. Đó chính là ái biệtly khổ.

Đốivới những người, những vật mình ghét, muốn tránh cho khuất mắt mà không thểtránh được; mình muốn lờ đi nhưng nó cứ hiện ra trước mặt. Trên một con đường,ai cũng muốn đi trên con đường sạch sẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai muốn đitrên con đường lầy lội, đầy gai góc hiểm độc ấy, muốn tránh nhưng bước đâuvướng đó, muốn né nhưng đi đâu vấp đó. Đối với sự vật bên ngoài đã vậy, còn đốivới người xung quanh, có người ta ưa thích, nhưng cũng có người ta ghét, takhông ưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng ở giữa hai cái ưa và không ưa đó cũng tạonên một cảnh ghét mà phải gặp là khổ, cho nên tục ngữ ta có câu: "Ghét củanào trời trao của ấy". Bên này oán bên kia và bên kia oán bên này. Một khiđã oán nhau như vậy thì vũ trụ bao la trở thành thu hẹp lại một góc. Gặp một ngườioán ghét ta muốn tránh, nhưng tránh hoài đến nỗi hết muốn gặp mà cũng không saotránh được. Vũ trụ bao la trong giờ phút này trở nên chật hẹp đến nỗi ta tưởngnó không còn một chỗ an toàn cho ta dung thân. Đó là cảnh oán tắng hội khổ.Cảnh này nếu nằm trong gia đình, trong thân tộc, trong bản thân của mỗi ngườithì lại càng khổ hơn nữa.

Chúngsanh luôn luôn nuôi dưỡng lòng tham muốn và mong cầu, đối với cuộc đời này họchưa một lần biết đủ, cảm thấy mình như một người thiếu thốn, họ tìm đủ mọicách để ôm trọn thế gian này. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người thật ngắnngủi, một trăm năm không đủ bề dày thời gian để làm thỏa mãn lòng tham của họ,vì vậy họ chịu khổ đau suốt đời vì ham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu,gọi là cầu bất đắc khổ.

Dẫucó người cho rằng đời còn có nhiều thú vui chứ đâu phải khổ hết. Coi xi-nê, coihát, bài bạc, rượu chè cũng vui, trúng số độc đắc hay làm quan cũng vui. ĐứcPhật không phủ nhận điều đó, nhưng Ngài nói: Cái vui đó là cái vui mong manhtrong đau khổ, cái vui còn vướng trong vô minh nghiệp chướng đưa đến khổ đaucàng sâu dày thêm. Cho nên có một nhà thơ Việt Nam viết:

"Bểkhổ mênh mông nước ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi".

Ngượcgió hay xuôi gió, chiếc thuyền cũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lêntrên biển được. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luân này là cáivui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cái vui giải thoát. Do thế, đứcPhật nói đời là đau khổ, mặc dù chúng sanh cho đời là vui, rồi say đắm theođời, không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đó phải nhắm mắt tắtthở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổ đau!

Nếubiết đem toàn tâm lực an trú trong Chánh pháp thì sẽ nhận rõ lời đó của đứcPhật: tất cả sự vật là vô thường, chúng sanh là vô ngã, thân thể là bất tịnh,mọi sự lãnh thọ đều là khổ: dù là thọ khổ hay thọ vui, cũng đều ở trong vòngtương đối. Đã ở trong vòng tương đối thì có sanh diệt, có sanh diệt tất nhiênlòng chúng ta không thỏa mãn, nên sanh ra đau khổ. Đức Phật vì đại sự nhânduyên đó mà ra đời, để chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh. Mục đích tu hành củangười tu Phật là để chuyển nghiệp. Ngài dạy rằng: "Nghiệp dắt thế giantới, nghiệp kéo thế gian đi, thế gian chuyển theo nghiệp, như bánh xe lăn theochân con vật kéo xe". Con vật kéo xe đi vào trong con đường tối tăm mù mịtthì bánh xe cũng phải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp cũng tương tự nhưthế. Mỗi người đều có những nghiệp riêng, nghiệp tốt thì làm cho con người tốt,nghiệp xấu thì làm cho con người xấu, nghiệp cao thượng thì trở thành con ngườicao thượng, và nghiệp thấp hèn thì trở thành con người thấp hèn. Tất cả đều donghiệp. Nghiệp là bào thai, nghiệp là sở hữu, cho nên khi sanh ra, khi chết đi,ta cũng chỉ một mình đi theo nghiệp chớ không có ai đi theo ta hết. Không aithay thế ta để đi theo trong khi ta sanh, già, bịnh, chết với cái nghiệp của tamà thôi. Cái nghiệp luôn luôn đi theo ta như bóng theo hình. Những người tạonghiệp lành thì có những người bạn lành cùng đi theo. Những người tạo nghiệp dữthì có những kẻ oan gia thù hận đi theo. Người tạo nghiệp lành thì như mangbình cam lồ đi đây đi đó. Người tạo nghiệp ác thì như mang một bồ rắn độc bênmình, luôn luôn nơm nớp sợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật dạy, con người là donghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy: "Con thiên nga chỉ bay được giữa hưkhông, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí, đạihạnh dứt sạch nghiệp luân hồi mới bay được khỏi thế gian này" (Pháp Cú175).

Baykhỏi thế gian này tức giải thoát, tự tại. Nên con người tu hành là để chuyểnnghiệp. Chuyển nghiệp xấu thành tốt, vô minh ra giác ngộ, trầm luân ra giảithoát. Tóm lại, chuyển cái nghiệp của chúng sanh ra cái nghiệp của chư Phật,Thánh, Hiền. Khi chuyển nghiệp được rồi thì chính cái nghiệp đó nó trở thànhmột tòa lâu đài để nâng đỡ chúng sanh, giúp cho chúng sanh được an vui, giảithoát...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/06/2015(Xem: 11966)
Tám Bài Kệ Chuyển Hóa Tâm và Phát Khởi Bồ Đề Tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 giảng. Thích Hạnh Tấn dịch
24/05/2015(Xem: 11764)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối. LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyên là vô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.
16/05/2015(Xem: 24891)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này? Hãy nôn nó ra, vứt hết đi, không chừa lại một chút gì cả. Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi vứt bỏ nó đi. Rồi cõi lòng bạn tràn ngập tình bi mẫn vị tha, thẩm thấu qua từng lỗ chân lông bạn. Hãy hiển lỗ tâm từ vô nhiễm trào dâng thương yêu. Hãy để những ai đến với bạn đều nhận được vầng quang hảo tâm không thể chối từ, cũng như khi rời xa, họ cảm thấy được cảm thông và can đảm hơn để đối mặt với cuộc đời đầy gian truân và nghiệt ngã này.
15/05/2015(Xem: 26475)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 22676)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 30887)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
05/04/2015(Xem: 14127)
Cái Tâm là cái chi chi, có chi chi củng cứ chi chi với Tâm. Theo quan niệm của Phật Giáo, Duy Thức Luận: Tâm thức tạo ra thế giới vạn vật, "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" hay "nhất thiết duy tâm sở tạo." Tất cả đều nói lên một ý rằng cả thế giới chúng ta đang sống đều do tâm thức tùy theo nhân duyên mà sanh ra muôn sự, muôn vật rồi cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không có việc gì, vật gì, có thực tướng ngay cả chư pháp, tồn tại vĩnh viễn ngoại trừ Tâm Bồ Đề là vô sinh, vô diệt đó chính là Tâm Phật.
05/01/2015(Xem: 21708)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 19169)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
15/12/2014(Xem: 11158)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta cần Phật Giáo? Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và tín ngưỡng Phật Giáo:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]