Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành trình tâm linh của tôi

02/11/201001:14(Xem: 5053)
Hành trình tâm linh của tôi
thien-dinh-03HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA TÔI
Trích từ tác phẩm mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma,
My Spiritual Journey.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 30/10/2010

Đây là một trích dẫn từ tác phẩm mới nhât của Đức Đạt Lai Lạt Ma, "My Spiritual Journey,"là một sưu tập những ký ức cá nhân, những giai thoại và phản chiếu thời thơ ấu ở Tây Tạng, những năm tháng đầu như một tu sĩ và kinh nghiệm của ngài như một lĩnh tụ của thế giới sống lưu vong:

Tôi là một cây cười chuyên môn

Tôi đã từng đối diện với nhiều trường hợp khó khăn suốt con đường của cuộc đời tôi, và quê hương tôi đang trãi qua một thời điểm nghiêm trọng. Nhưng tôi cười thường xuyên, và cái cười của tôi là lây lan. Khi người ta hỏi tôi làm thế nào tôi có thể tìm thấy động lực để cười bây giờ, tôi trả lời rằng tôi là một cây cười chuyên môn. Cười là một đặc điểm của người Tây Tạng điều này khác biệt với người Nhật Bản hay Ấn Độ. Họ rất vui vẻ, giống như người Ý Đại Lợi, hơn là hơi dè dặt một chút như người Đức hay người Anh.

Sự vui tươi của tôi cũng đến từ gia đình tôi. Tôi đến từ một ngôi làng nhỏ, không phải một thành phố lớn, và cung cách của đời sống là vui tính hơn. Chúng tôi luôn luôn hài hước với chính mình, chọc ghẹo người khác, đùa bởn. Đấy là thói quen của chúng tôi.

Thêm vào điều ấy, như tôi thường nói, trách nhiệm biểu lộ hiện thực. Dĩ nhiên vấn nạn là ở đấy. Nhưng suy tư về những khía cạnh tiêu cực không giúp đưa đến tìm thấy những giải pháp, và nó tàn phá sự an lạc của tâm hồn. Mọi thứ mặc dù liên hệ. Chúng ta có thể thấy khía cạnh tích cực ngay cả những thảm họa tệ hại nhất, nếu chúng ta tiếp nhận một viễn tượng thánh thiện. Tuy thế, nếu chúng ta lấy sự tiêu cực như chắc thực và nhất định, chúng ta sẽ làm gia tăng sự lo lắng và băn khoăn, trái lại bằng sự trãi rộng cung cách chúng ta nhìn vào một vấn đề, chúng ta thấu hiểu điều gì tệ hại về nó , nhưng chúng ta chấp nhận nó. Đây là thái độ của tôi, tôi suy nghĩ, từ sự thực hành và từ triết lý nhà Phật, là những điều hổ trợ tôi vô cùng.

Thí dụ, lấy việc bị mất nước. Chúng tôi là những người không có quốc gia, và chúng tôi phải đối diện nghịch cảnh cùng với nhiều hoàn cảnh đau thương ở Tây Tạng. Tuy thế, những kinh nghiệm như vậy cũng mang đến nhiều lợi lạc.

Như đối với tôi, tôi đã là người không nhà hơn nửa thế kỷ. Nhưng tôi đã tìm thấy một số lượng lớn những ngôi nhà mới suốt toàn thế giới bao la. Nếu tôi vẫn ở điện Potala, tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có cơ hội để gặp gở thật nhiều cá nhân, thật nhiều lĩnh tụ ở Á châu, Đài Loan, Hoa Kỳ, và Âu châu, những vị giáo hoàng cũng như nhiều nhà khoa học và kinh tế học nổi tiếng.

Cuộc sống lưu vong là một đời sống bất hạnh, nhưng tôi luôn luôn cố gắng đề trau dồi một thể trạng vui tươi của tâm hồn, cảm kích những cơ hội của sự hiện hữu này mà không có một ngôi nhà ổn định, đã được đề nghị cho tôi, vượt xa mọi nghi lễ. Cách này, tôi đã có thể bảo tồn sự hòa bình của tâm hồn nội tại.

Như một thiếu niên, tôi đã học hỏi từ những vị thấy của tôi để bảo vệ môi trường

Như một cậu bé nhỏ, khi tôi đang học hỏi Phật Pháp, tôi đã được dạy chăm sóc thiên nhiên, từ việc thực hành bất bạo động áp dụng không chỉ cho con người mà cho toàn thể chúng sinh. Mọi thứ đấy là sức sống mãnh liệt của tâm thức. Bất cứ nơi nào có tâm thức, thì có sự cảm nhận như khổ đau, hạnh phúc, và sướng vui. Không có chúng sinh nào muốn khổ đau. Trái lại, tất cả chúng sinh mưu cầu hạnh phúc. Trong sự thực hành Phật Giáo, chúng ta rất quen thuộc với ý tưởng này của bất bạo động và mong ước chấm dứt tất cả khổ đau mà chúng ta cẩn thận không tấn công hay tàn phá sự sống một cách vô ý thức. Rõ ràng, chúng ta không tin rằng cây cối, hay bông hoa có một tâm thức, những chúng ta đối xử chúng với sự tôn trọng. Vì thế, chúng ta gánh vác một ý nghĩa của trách nhiệm phổ quát đối với con người và thiên nhiên.

Sự tin tưởng vào tái sinh giải thích sự quan tâm của chúng ta cho tương lai. Nếu chúng ta nghĩ chúng ta sẽ phái tái sinh, chúng ta làm cho nó , bổn phận của chúng ta để bảo vệ những thứ nào đấy vì thế, trong tương lai, sự tái sinh của chúng ta sẽ lợi lạc từ đấy. Mặc dù chúng ta không thể tái sinh ở một hành tinh khác, ý tưởng tái sinh động viên chúng ta chăm sóc trái đất và những thế hệ tương lai. Ở phương Tây, khi chúng ta nói về “nhân loại”, chúng ta thường chỉ liên hệ đến thế hệ hiện tại. Nhân loại quá khứ không hiện hữu nữa. Nhân loại của tương lai, như sự chết, chưa hiện hữu. Từ quan điểm của phương Tây, chúng ta quan tâm với những khía cạnh thực tiển của sự vật, chỉ thuần cho thế hệ hiện tại.

Sự cảm nhận của người Tây Tạng về thiên nhiên xuất phát từ phong tục của chúng tôi một cách phổ biến và không chỉ từ Đạo Phật. Nếu chúng ta lấy thí dụ về Đạo Phật ở Thái Lan hay Nhật Bản, trong những môi trường khác biệt với chúng tôi, văn hóa và thái độ không giống nhau. Môi trường thiên nhiên của Tây Tạng, không giống như những người khác, có một sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với chúng tôi. Người Tây Tạng không sống trên một hòn đảo nhỏ với số người quá mức. Xuyên suốt lịch sử chúng tôi không lo ngại về lĩnh thổ mênh mông thưa thớt, hay về những người láng giềng xa xôi. Chúng tôi không có cảm giác bị đè nặng đàn áp như nhiều cộng đồng khác.

Hoàn toàn có thể thực hành một cách toàn hảo căn bản của một niềm tin hay một nền văn hóa mà không cần phối hợp nó với một tôn giáo. Nền văn hóa Tây Tạng của chúng tôi, mặc dù đầy gợi hứng từ Phật Giáo, nhưng nó không được hình thành nên triết lý của nó hoàn toàn từ đấy. Một lần nọ tôi đã gợi ý một tổ chức giúp người tỵ nạn Tây Tạng rằng sẽ thật là hấp dẫn để học hỏi nghiên cứu những con người của chúng tôi đã được hình thành bởi kiểu mẫu truyền thống đời sống của họ nhiều như thế nào. Những nhân tố nào đã làm cho người Tây Tạng bình lặng và thân mật tự nhiên? Người ta luôn luôn tìm kiếm một câu trả lời trong tôn giáo của chúng tôi, nó đặc thù, mà quên đi rằng môi trường của chúng tôi cũng là ngoại lệ.

Sự bảo tồn thiên nhiên không cần thiết là một hành vi thiêng liêng, và nó không luôn luôn đòi hỏi từ bi. Như những Phật tử, chúng tôi từ bi đối với tất cả chúng sinh, nhưng không cần thiết đối với mỗi hòn đá, cây cối, hay nơi cư ngụ. Hầu hết mọi người chúng tôi chăm sóc ngôi nhà của chúng tôi mà không cần cảm nhận bất cứ sự từ bi nào về nó. Tương tự thế, hành tinh của chúng ta là ngôi nhà của chúng ta, và chúng ta phải duy trì nó với sự cẩn trọng, để bảo đảm sự hạnh phúc của chúng ta và niềm hạnh phúc của con cháu chúng ta, của bạn bè chúng ta, và của toàn thể chúng sinh những ai chia sẻ nơi cư trú vĩ đại này. Nếu chúng ta nghĩ về hành tinh của chúng ta như ngôi nhà của chúng ta hay “bà mẹ” của chúng ta, Bà Mẹ Đất, chúng ta sẽ cần phải chăm sóc nó.

Ngày nay chúng ta hiểu rằng tương lai của nhân loại tùy thuộc trên hành tinh của chúng ta, tương lai của nó tùy thuộc trên nhân loại. Nhưng điều ấy không phải luôn luôn quá rõ ràng. Cho đến bây giờ, Bà Mẹ Đất đã có thể bao dung sự vô tình của chúng ta. Tuy thế, ngày nay, thái độ của nhân loại, dân số, và kỷ thuật đã đạt đến một mức độ mà Bà Mẹ Đất của chúng ta không thể chấp nhận nó nữa trong im lặng. “Những đứa con của mẹ đang cư xử một cách tệ hại,” bà đã cảnh cáo để làm cho chúng ta nhận ra rằng có những giới hạn mà không thể vượt qua.

Như những người Phật tử, chúng tôi chủ trương sự vừa phải, mà điều ấy không phải không liên hệ với môi trường, vì chúng tôi không tiêu thụ bất cứ điều gì một cách lãng phí. Chúng tôi thiết lập những giới hạn trên những thói quen của chúng tôi về tiêu thụ, và chúng tôi đánh giá một cung cách giản dị, trách nhiệm của đời sống. Sự liên hệ đến môi trường của chúng tôi luôn luôn là đặc biệt. Nhưng kinh điển cổ xưa của chúng tôi nói về bình chậu và sức chứa của nó. Thế giới là chiếc bình, ngôi nhà của chúng ta và chúng ta, sự sống, là dung lượng của nó.

Kết quả của điều này là mối quan hệ đặc biệt đến thiên nhiên, vì, không có chiếc bình, dung lượng không thể được chứa đựng gì cả. Không thể hoàn toàn khiển trách loài người vì đã sử dụng tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu, nhưng chúng ta không nên khai thác thiên nhiên vượt quá nhu cầu một cách vô tình. Cần yếu phải thẩm tra lại từ quan điểm đạo đức sự phân phối mà chúng ta đã nhận, sự phân phối cho điều mà tất cả chúng ta trách nhiệm, và sự phân phối mà chúng ta sẽ trao lại cho những thế hệ tương lai. Rõ ràng, thế hệ chúng ta đang đi qua một thời điểm nghiêm trọng. Chúng ta có tăng cường những hình thức của sự đối thoại toàn cầu, nhưng những xung đột xãy ra thường xuyên hơn những đối thoại để xây dựng hòa bình. Những kỳ diệu của khoa học và kỷ thuật tồn tại song song với nhiều thảm họa như sự đói kém và sự tiệt chủng của những hình thức sống nào đấy. Chúng ta làm hết mình để khám phá không gian khi đại dương, biển cả, và nguồn nước ngọt đang trở nên ngày càng bị ô nhiễm. Có thể là những nhóm người nào đấy trên trái đất, những động vật, cây cỏ, côn trùng, và ngay cả những vi sinh vật nào đấy sẽ không được những thế hệ tương lai biết đến. Chúng ta phải hành động trước khi nó quá trể.

The Huffington Post| By His Holiness The Dalai Lama

http://www.huffingtonpost.com/2010/10/11/dalai-lama-book-my-spirit_n_758092.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 88184)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 138584)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 18881)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
30/11/2017(Xem: 7430)
Định nghĩa. Vô Trước. Vô, nghĩa là không. Trước, nghĩa là dính mắc, bị dính vào, mắc vào, kẹt vào. Cụm từ Vô Trước, nói cho đủ: Không bị dính mắc, kẹt vào. Danh từ kép này, được chỉ cho những hành giả trong đạo phật trên đường tu tập, để tìm cầu cho mình cơn đường giải thoát là không để cái Tâm bị dính vào, mắc vào, kẹt vào sắc trần, nói như pháp môn thiền định “đối cảnh vô tâm. Như vậy, tâm con người thường bị dính trần hay sao, mà pháp thiền phải cảnh giác ? Đúng như vậy, tâm của kẻ phàm phu ưa dính, mắc vào, kẹt vào sắc trần vật chất, ưa trách móc, ưa chấp nê, ưa nghe lời khen ngợi
21/11/2017(Xem: 11505)
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau: “Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
19/11/2017(Xem: 5911)
Chris Impey là Phó Khoa Trưởng của Đại Học Khoa Học, và là một Giáo Sư Xuất Chúng của Khoa Thiên Văn Học thuộc Đại học Arizona (Hoa Kỳ). Công trình nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc phát triển và cung cấp năng lượng của những lỗ đen khổng lồ trong các thiên hà.Ông đã viết hai cuốn sách giáo khoa, một tiểu thuyết, tám cuốn sách khoa học phổ thông, và hơn 250 bài nghiên cứu và bài báo.Khiêm Tốn TrướcHư Không(Humble Before the Void ), một cuốn sách dựa trên những khóa hội thảo được mô tả trong bài báo này, do Templeton Press xuất bản năm 2014
01/11/2017(Xem: 10617)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 23405)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
21/06/2017(Xem: 8543)
* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sư không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.
16/03/2017(Xem: 9195)
Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã). Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]