Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa Sắc tứ Vạn Phước Di Đà, Huế - Ngôi danh lam cổ tự trên đất cố đô.

06/01/202308:41(Xem: 1889)
Chùa Sắc tứ Vạn Phước Di Đà, Huế - Ngôi danh lam cổ tự trên đất cố đô.


to dinh van phuoc (3)

Chùa Sắc tứ Vạn Phước Di Đà, Huế
Ngôi danh lam cổ tự trên đất cố đô.

 

Chùa Vạn Phước Di Đà tọa lạc trên đỉnh núi Bình An, đường Điện Biên Phủ, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa quay mặt hướng Tây Nam.

Chùa nguyên là am Phổ Phúc do Thiền sư Hải Nhận hiệu Lương Tri dựng để tĩnh tu vào năm 1845. Được sự trợ duyên của Thượng thư Nguyễn Đình Hòe, vào năm 1847, thảo am trở thành chùa Phổ Phúc do Thiền sư Hải Mẫn hiệu Quang Đức trú trì; cụ Nguyễn Đình Hòe, pháp danh Trừng Phước làm Hội chủ. Trong thời gian này, chùa đã cung chú tượng đức Phật Thích Ca ngồi kiết già trên tòa sen, thủ ấn Cam lồ. Tượng cao 1,10m, tòa sen cao 0,75m. Tượng được tạo tác bằng nan tre, sơn son thếp vàng, là pho tượng Phật cổ và quý của Phật giáo cố đô Huế.

Đến năm 1910, khi ngài Hải Mẫn viên tịch, thể theo lời thỉnh mời chùa Phổ Phúc, Sơn môn Tăng già cử ngài Giác Hạnh, là đệ tử của ngài Tâm Tịnh (chùa Tây Thiên) về làm trú trì. Năm 1916, ngài Giác Hạnh đã tổ chức đại trùng tu chùa và đổi tên thành chùa Vạn Phước Di Đà. Nhân dịp này, triều đình nhà Nguyễn đã phê duyệt tấu chương của Thượng thư Nguyễn Đình Hòe, cho cung thỉnh bộ tượng Phật Tam Thế của chùa Giác Hoàng đang cất giữ tại chùa Diệu Đế về phụng thờ tại chùa Vạn Phước.

Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm. Năm 1933, Trường Sơ đẳng Phật học đầu tiên của Hội được mở tại chùa Vạn Phước do Thiền sư Thích Mật Khế làm Hiệu trưởng.

Vào ngày mồng 07 tháng 12 năm Đinh Sửu (1937), thể theo tấu chương của Thượng thư Phạm Quỳnh, triều đình nhà Nguyễn đã ban sắc phong cho chùa: “Sắc tứ Vạn Phước Tự” và sắc phong ngài Giác Hạnh làm Tăng Cang.

Chùa được đại trùng tu vào năm 1940 với kiểu chùa truyền thống Huế. Sau đó, ngài Giác Hạnh giao chức vụ trú trì cho ngài Tâm Hảo. Ngài Tâm Hảo viên tịch vào năm 1953.

Năm 1954, chùa được trùng tu và lấy biển hiệu là “Sắc tứ Vạn Phước Di Đà Tự”. Năm 1966, ngài Giác Hạnh cử ngài Tâm Hướng kế vị trú trì và Đại đức Tâm Thọ làm tri sự.

Năm 1967, ngài Giác Hạnh cử ngài Tâm Hướng vào Sài Gòn để nhận chùa Tuệ Quang (năm 1970 đổi tên chùa Vạn Phước) ở đường Sư Tuệ Tĩnh, quận 11 do ông bà Nguyễn Hữu Đức phụng cúng làm nơi lưu trú cho học tăng từ Huế và học tại Viện Đại học Vạn Hạnh.

Năm 1981, ngài Giác Hạnh đã an nhiên thị tịch tại Tổ đình Vạn Phước, Huế, trụ thế 102 năm, 74 hạ lạp.

Năm 1993, ngài Tâm Hướng đã cử pháp đệ là Thượng tọa Thích Tâm Thọ trú trì Tổ đình Vạn Phước, Huế; trưởng pháp tử là Thượng tọa Thích Phước Trí làm trú trì chùa Vạn Phước, quận 11, thành phố HCM.

Năm 1997, ngài Tâm Hướng đã an nhiên thị tịch tại chùa Vạn Phước, thành phố HCM, trụ thế 74 năm, 48 hạ lạp.

Tiếp tục sự nghiệp của chư Tổ, Hòa thượng Thích Tâm Thọ lo tiếp Tăng độ chúng, trùng hưng và xây dựng ngôi Tổ đình trang nghiêm, an tịnh: Năm 1993, xây dựng Quan Âm các; năm 1994, xây dựng và trùng tu nhà Đông; năm 1995, xây dựng nhà Hậu để làm Tàng Kinh các; năm 2005, tái thiết ngôi Chánh điện và xây dựng nhà Hậu Tổ; năm 2008, xây dựng lầu chuông v.v…

Điện Phật Tổ đình Vạn Phước được bài trí tôn nghiêm, chính giữa tôn trí bộ tượng Tam Thế Phật bằng đồng; tượng đức Phật Thích Ca bằng nan tre (thế kỷ 19); tượng đức Phật A Di Đà phóng quang bằng đồng. Tượng đức Phật A Di Đà cao 3m, ngang 0,84m, đặt trên bệ và tòa sen cao 1,35m do Phật tử Võ Văn Cang, pháp danh Nguyên Lưu cúng dường năm 1945; lễ cung chú và rót đồng đúc tôn tượng vào ngày 30.8.1945. Pho tượng đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục ngày 05.5.2008 là “Pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đồng trong chánh điện cao nhất Việt Nam”.

 

Võ Văn Tường

Website: chuaviettoancau.com

 

Tài liệu tham khảo: Thích Tâm Thọ, 2009, Lược sử Tổ đình Vạn Phước - Huế, bản in lớn treo tại chùa.

 

***

 

Chú thích ảnh:

Ảnh 01. Biển tên chùa

Ảnh 02. Cổng chùa

Ảnh 03. Cổng tam quan

Ảnh 04. Ngôi chánh điện

Ảnh 05. Quan Âm các

Ảnh 06. Điện Phật

Ảnh 07. Tượng đức Phật A Di Đà

Ảnh 08. Tượng Bồ tát Quán Thế Âm

Ảnh 09. Bàn thờ chư Phật, Bồ tát

Ảnh 10. Bàn thờ chư Phật, Bồ tát

Ảnh 11. Bàn thờ Quan Âm ngàn tay ngàn mắt

Ảnh 12. Bàn thờ Hộ Pháp

Ảnh 13. Bàn thờ Tổ

Ảnh 14. Đại hồng chung

Ảnh 15. Trống bát nhã

Ảnh 16. Sân thiên tỉnh

 



to dinh van phuoc (1)to dinh van phuoc (2)to dinh van phuoc (3)to dinh van phuoc (4)to dinh van phuoc (5)to dinh van phuoc (6)to dinh van phuoc (7)to dinh van phuoc (8)to dinh van phuoc (9)to dinh van phuoc (10)to dinh van phuoc (11)to dinh van phuoc (12)to dinh van phuoc (13)to dinh van phuoc (14)to dinh van phuoc (15)to dinh van phuoc (16)

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/09/2020(Xem: 5312)
Chùa Huyền Không còn gọi là chùa Huyền Không 1, chùa Huyền Không Sơn Trung để phân biệt với chùa Huyền Không 2, chùa Huyền Không Sơn Thượng ở Huế. Chùa tọa lạc ở thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, thành phố Huế (cách chùa Thiên Mụ 3 km về phía tây) với diện tích khoảng 6.000 m2. Chùa thuộc Hệ phái Phật giáo Nam Tông (Kinh). Chùa Huyền Không được Sư Viên Minh, Sư Tịnh Pháp, Sư Trí Thâm và Sư Tấn Cănxây dựng vào năm 1973 tại Lăng Cô, bên chân đèo Hải Vân, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngôi chùa bấy giờ nhỏ, dựng bằng tre nứa.
15/09/2020(Xem: 10092)
Chùa tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa quay hướng Nam. Bên trái chùa, có chùa Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu. Chùa được Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung dựng vào cuối thế kỷ 17 tại ngọn đồi thấp Hoàng Long Sơn, có tên thiền thất Ấn Tôn. Năm Nhâm Thìn (1712), ngài Thiệt Diệu Liễu Quán, quê ở Phú Yên là đệ tử đắc pháp của Sơ tổ Minh Hoằng Tử Dung, được ngài truyền tâm ấn, trở thành đệ nhị Tổ. Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán đã phát triển dòng thiền Lâm Tế cho đến ngày nay.
13/09/2020(Xem: 11440)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
11/09/2020(Xem: 4122)
Chùa Hà Trung tọa lạc ở làng Hà Trung, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 50 km. Chùa được lập vào thời Hậu Lê, gắn với hành trạng Thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư từ Quảng Đông, Trung Quốc sang Quy Nhơn lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cử ngài đến trụ trì chùa Hà Trung. Ngôi chùa ngày nay được trùng tu năm 1995, đại trùng tu năm 2009. Trụ trì chùa là Hòa thượng Thích Chơn Tế (trụ trì chùa Tường Vân, Huế kiêm nhiệm), Tri sự là Đại đức Thích Quảng Huệ.
11/09/2020(Xem: 4698)
Thông Điệp Của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN thân gởi Chư Tôn Đức Tăng Ni và Đồng Bào Phật tử Hải Ngoại)
09/09/2020(Xem: 4312)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
07/09/2020(Xem: 6773)
Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long (trên đất làng Thụy Lôi xưa, gần xóm Lịch Đợi), đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714. Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
05/09/2020(Xem: 7130)
Chùa Giác Lâm tọa lạc tại số 02 kiệt 56 đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nguyên là một thảo am do Tổ Giác Hải, người làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị khai sáng vào ngày 16 tháng 3 năm Đinh Dậu (1897) trên một triền đồi, dưới chân núi Ngự Bình, đặt tên Duy Tôn Tự để truyền bá chánh pháp, đem đạo Phật phổ hóa vào những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tổ có thế danh là Nguyễn Văn Cẩm, sinh trưởng trong một gia đình tín tâm với đạo Phật. Ngài là đệ tử của Tổ Tâm Tịnh, khai sáng Tổ đình Tây Thiên, Huế. Ngài có pháp danh là Trừng Nhã, tự Chí Thanh, hiệu Giác Hải.
30/08/2020(Xem: 5079)
Chùa Thiên Mụ thường gọi là chùa Linh Mụ, tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nằm ở bờ bắc sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Sách Ô Châu cận lụccủa Tiến sĩ Dương Văn An cho biết chùa Thiên Mụ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông. Chùa được chúa Tiên - Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa khang trang. Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm, người Trung Quốc, được chúa Nguyễn mời làm trụ trì chùa. Từ chùa Thiên Mụ và chùa Khánh Vân (Huế), Ngài đã truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng Trong.Hòa thượng Thạch Liêm đã tả cảnh chùa Thiên Mụ: “Đêm 15 trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa (?) chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo …” (1)
16/12/2019(Xem: 5441)
Chùa do Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) khai sáng vào đầu thế kỷ XVIII. Thiền sư là đệ tử đắc pháp của Hòa thượng Minh Hoằng - Tử Dung, được Hòa thượng trao tâm ấn năm 1712. Bấy giờ, chùa đã trở thành một đạo tràng lớn, có hàng vạn đệ tử học đạo, nghe pháp. Trong ba năm 1733, 1734 và 1735, Thiền sư đã mở ba Đại giới đàn truyền giới cho hàng vạn người tại chùa. Năm 1740, Thiền sư mở đại giới đàn Long Hoa ở kinh thành; năm 1742 mở Đại giới đàn tại chùa Viên Thông, nơi ngài khai sơn trước chùa Thiền Tôn. Thiền sư viên tịch năm Nhâm Tuất (1742), bảo tháp dựng ở một triền núi phía Đông Nam chùa vào tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), la thành bao quanh đồi tháp được xây vào năm 2001 nhân dịp đại trùng tu ngôi tổ đình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567