Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa Thiên Mụ, Huế, Ngôi Cổ Tự Danh Tiếng Bên Dòng Sông Hương

30/08/202018:56(Xem: 4951)
Chùa Thiên Mụ, Huế, Ngôi Cổ Tự Danh Tiếng Bên Dòng Sông Hương

Chua Linh Mu (4)


CHÙA THIÊN MỤ, HUẾ
NGÔI CỔ TỰ DANH TIẾNG BÊN DÒNG SÔNG HƯƠNG

Bài viết của Nhiếp ảnh gia Võ Văn Tường
Do Phật tử Quảng Hương diễn đọc
từ Trang Nhà Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu




 

Chùa Thiên Mụ thường gọi là chùa Linh Mụ, tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nằm ở bờ bắc sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 5km.

Sách Ô Châu cận lụccủa Tiến sĩ Dương Văn An cho biết chùa Thiên Mụ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông.

Chùa được chúa Tiên - Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa khang trang. Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm, người Trung Quốc, được chúa Nguyễn mời làm trụ trì chùa. Từ chùa Thiên Mụ và chùa Khánh Vân (Huế), Ngài đã truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng Trong.Hòa thượng Thạch Liêm đã tả cảnh chùa Thiên Mụ: “Đêm 15 trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa (?) chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo …” (1)

Năm 1710, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc đại hồng chung (cao 2,5m, đường kính 1,4m, nặng 3285 cân, tương đương 1.985,8 kg). Năm 1714, chúa cho sửa chùa khang trang, mỹ lệ;mở an cư kiết hạ trong vườn Tỳ Da suốt tháng; cho người sang Trung Quốc thỉnh Tam Tạng kinh điển hơn ngàn bộ đem về lưu giữ tại chùa. Năm 1715, công trình hoàn thành, chúa cho dựng bia để ghi nhớ. Tấm bia đá “Ngự kiến Thiên Mụ tự” (cao 2,6m, rộng 1,25m) đặt trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch (dài 2,2m, rộng 1,6m). Tấm bia khắc chính lời văn của vị Quốc chúa là tư liệu lịch sử quý và có giá trị chính xác. Văn bia có đoạn: “Quyên góp ngọc ngà, chẳng tiếc vàng bạc, hễ luật nước đã truyền, công việc xây dựng lâu đài cung điện do quan lính đảm trách chẳng sợ lao nhọc, đến cùng lực có toàn dân giúp sức, chẳng sợ năm tháng kéo dài.” (2). Minh Vương đã miêu tả cảnh chùa Thiên Mụ bấy giờ: “Từ cửa núi đi vào có điện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng, Đại Hùng Bửu Điện, nhà thuyết pháp, lầu tàng Kinh. Hai bên là lầu chuông và lầu trống; rồi điện Thập Vương, nhà Vân Thủy, nhà ăn, nhà tọa Thiền; rồi điện Đại Bi, điện Dược Sư, nhà ở của chư Tăng, nhà trọ cho khách, không dưới vài mươi sở. Bên sau là vườn Tỳ Da, trong vườn có nhà Phương trượng và các chỗ, cũng không dưới vài chục sở. Tất cả đều sáng chói rực rỡ, khiến cho người xem phải kinh ngạc sợ hãi, thật là một tòa quang minh trong thế giới toàn sắc vàng rực vậy”.(3)

và bài minh ca ngợi ngôi danh lam này:

                                    “... Phía Nam nước Việt chừ, núi sông đẹp đẽ

                                    Ngôi chùa hùng tráng chừ, cửa Thiền nắng chiếu

                                    Tánh vốn trong sạch chừ, nước chảy róc rách

                                    Đất nước an ổn chừ, bốn cảnh thanh nhàn”.


Sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) xưng vương, ông đã truy tôn bảy đời chúa trước lên vương hiệu và chạm bài vị thờ ở chùa Thiên Mụ.

Năm 1776, chúa Nguyễn Phúc Thuần thất trận bỏ chạy khỏi kinh thành. Quân Trịnh chiếm Phú Xuân. Chùa Thiên Mụ không có vị trú trì chăm sóc trở thành nơi hoang liêu. 10 năm sau, năm 1786, quân Trịnh lại bị quân Tây Sơn đánh bại, chùa Thiên Mụ đi vào giai đoạn hoang tàn, đổ nát cho đến năm 1815.

Năm 1815, vua Gia Long đã cho trùng kiến chùa Thiên Mụ, xây Đại Hùng Bảo Điện, điện Di Lặc và điện Quan Âm. Đến đời vua Minh Mạng, vua đã năm lần cho mở đại trai đàn tại chùa vào các năm: 1820, 1825, 1835, 1837 và 1838. Vua đã ngự giá lên chùa dự lễ đại trai đàn năm 1835.

Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị đã cho kiến thiết chùa Thiên Mụ thành ngôi phạm vũ có giá trị về kiến trúc và mỹ thuật. Công trình kiến trúc nổi tiếng của chùa là ngôi tháp hình bát giác, 7 tầng, cao 21m, được vua Thiệu Trị cho xây dựng năm 1844, mang tên tháp Từ Nhân. Năm sau, vua sắc chỉ đổi tên Phước Duyên bảo tháp. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật.

Năm 1844, vua Thiệu Trị cho xây bốn trụ biểu lớn trước ngôi tháp. Năm 1846, xây hai bi đình. Một bi đình dựng bia “Thiên Mụ chung thanh”khắc thơ của vua các dịp vua viếng chùa. Một bi đình dựng bia “Phước Duyên bảo tháp bi ký”nói ý nghĩa việc xây tháp Phước Duyên.Trước tháp, vua cho xây đình Hương Nguyện, ngôi nhà vuông tám mái, trên chóp đặt một pháp luân. Hai bên đình là lầu đặt tấm bia lớn trên lưng rùa năm 1715 và đại hồng chung đúc năm 1710 đời chúa Nguyễn Phúc Chu.

Đến đời vua Tự Đức, chùa đổi tên là chùa Linh Mụ. Vua cho khắc bức hoành có chữ “Linh MụTự” treo ở cổng tam quan.

Trận bão năm 1904 làm chùa bị sập đổ nhiều nơi. Năm 1907, đời vua Thành Thái, chùa được trùng tu, thay đổi một số công trình kiến trúc.Sách “Châu bản triều Nguyễn” cho biết vào năm 1908, tháp Phước Duyên bị sét đánh hỏng, triều đình đã xuất 132 đồng 3 hào 1 xu cho Bộ Công sửa chữa.

Chùa bị hư hỏng nặng năm 1943. Từ năm 1945, Hòa thượng Thích Đôn Hậu đã tổ chức công cuộc đại trùng tu kéo dài hơn 30 năm.

Chùa Thiên Mụ là một trong 16 công trình nằm trong danh mục Di sản văn hóa thế giới (1993) của quần thể di tích Huế. Ngày 28/8/2003, chùa đã khởi công trùng tu với kinh phí khoảng 15 tỷ đồng do Nhà nước cấp.

Ngôi chùa ngày nay có hai phần. Phần sân ngoài mang tính kỷ niệm, xây dựng kiên cố. Đó là: trụ biểu, tháp, bia và chuông. Phần bên trong cổng tam quan là các công trình kiến trúc tôn trí tượng thờ như: ngôi Đại Hùng Bửu Điện, điện Địa Tạng, điện Quan Âm … Điện Đại Hùng xây dựng theo kiểu nhà “trùng thiềm điệp ốc”, nét riêngcủa chùa Huế. Bên cạnh điện Đại Hùng có hòn non bộ lớn của ông Đào Tấn và chiếc xe ô tô Austin - di vật: “Ngày 11/6/1963. Hòa thượng Thích Quảng Đức đã dùng chiếc xe này đi từ chùa Ấn Quang đến ngã tư đường Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, Sài Gòn. Vừa bước xuống xe, Hòa thượng tĩnh tọa giữa lòng đường, rồi tẩm xăng và châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách bạo tàn kỳ thị Phật giáo và đàn áp tự do tín ngưỡng của chế độ Ngô Đình Diệm”. Cuối khu vườn là ngôi tháp mộ của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu.

Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa còn bảo lưu nhiều tượng cổ, pháp khí, di vật các thế kỷ 17, 18 và 19 như: khánh đồng, đại hồng chung, bia đá, bốn chữ “Linh Thứu CaoPhong” thủ bút của chúa Nguyễn Phúc Chu. Các bộ tượng Tam Thế Phật, đức Phật Thích Ca, Bồ tát Di Lặc, Quan Âm Thủ Quyển, Kim Cang, Minh Vương, Hộ Pháp … ở chùa đều là những tác phẩm mỹ thuật đặc sắc và lớn nhất trong các ngôi chùa xứ Huế.

Đại hồng chung chùa Thiên Mụ đúc năm 1710, trình độ mỹ thuật cao, có 4 con rồng quẫy mình, 4 con phượng bay đuôi, cành lá uốn như lượn sóng. Đại hồng chung được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là Bảo vật Quốc gia đợt 2 ngày 30/12/2013.

Tấm bia “Ngự kiến Thiên Mụ tự” năm 1715 được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là Bảo vật Quốc gia đợt 8 ngày 15/01/2020.

Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập hai kỷ lục ở chùa là:

01. Tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, ngôi tháp bát giác cổ và cao nhất (ngày 11/6/2006)

02. Chùa Thiên Mụ, ngôi chùa có tấm bia thời Lê Trung Hưng lớn nhất (ngày 05/5/2008)

 

Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Linh Mụ canh gà Thọ Xương.


Chùa Thiên Mụ là ngôi cổ tự nổi tiếng. Câu ca dao từ bao đời đã để lại trong lòng người dân Huế và du khách đến Huế hình ảnh một cảnh chùa đẹp, thơ mộng bên bờ sông Hương.

 

Võ Văn Tường

 

 

(1), (2), (3): Hà Xuân Liêm, 2000, Những ngôi chùa Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

 

Chú thích ảnh:

 
Chua Linh Mu (1)

Ảnh 01. Toàn cảnh chùa

Chua Linh Mu (2)
Ảnh 02. Thuyền đưa du khách viếng chùa

Chua Linh Mu (3)Chua Linh Mu (4)
Ảnh 03, 04. Toàn cảnh chùa

Chua Linh Mu (5)
Ảnh 05, 06. Tháp Phước Duyên và tượng thờ trong tháp

Chua Linh Mu (7)Chua Linh Mu (8)Chua Linh Mu (9)
Ảnh 07-09. Đại hồng chung (năm 1710)

Chua Linh Mu (10)Chua Linh Mu (11)
Ảnh 10, 11. Bia khắc bài thơ “Thiên Mụ chung thanh” của vua Thiệu Trị

Chua Linh Mu (12)Chua Linh Mu (13)Chua Linh Mu (14)Chua Linh Mu (15)
Ảnh 12-15. Bia khắc bài “Ngự kiến Thiên Mụ tự” của chúa Nguyễn Phúc Chu

Chua Linh Mu (16)Chua Linh Mu (17)
Ảnh 16, 17. Bia khắc bài “Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi” của vua Thiệu Trị

Chua Linh Mu (18)Chua Linh Mu (19)
Ảnh 18-20. Cổng tam quan

Chua Linh Mu (21)Chua Linh Mu (22)
Ảnh 21, 22. Tượng Hộ Pháp

Chua Linh Mu (23)Chua Linh Mu (24)
Ảnh 23, 24. Ngôi Đại Hùng Bửu Điện




Chua Linh Mu (25)
Ảnh 26. Tượng Bồ tát Di Lặc

Chua Linh Mu (26)
Ảnh 27. Tượng Bồ tát Quán Thế Âm

Chua Linh Mu (27)
Ảnh 28. Tụng kinh

Chua Linh Mu (29)Chua Linh Mu (30)
Ảnh 29, 30. Điện Địa Tạng

Chua Linh Mu (31)Chua Linh Mu (32)
Ảnh 31-33. Điện Quan Âm

Chua Linh Mu (33)Chua Linh Mu (34)
Ảnh 34, 35. Bàn thờ Thập Điện Minh Vương

Chua Linh Mu (35)
Ảnh 36. Bức hoành “Linh Thứu Cao Phong”

Chua Linh Mu (36)
Ảnh 37. Tháp mộ cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu

Chua Linh Mu (38)
Ảnh 38-39. Hòn non bộ lớn

Chua Linh Mu (39)
Ảnh 40. Nhà khách

Chua Linh Mu (40)Chua Linh Mu (41)
Ảnh 41-42. Hòa thượng trụ trì và các chú tiểu

Chua Linh Mu (42)
Ảnh 43. Chiếc xe di vật ngày 11/6/1963

Chua Linh Mu (43)Chua Linh Mu (44)
Ảnh 44-45. Khách Quốc tế viếng chùa

Chua Linh Mu (45)
Ảnh 46. Bến thuyền chùa Thiên Mụ
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2020(Xem: 5989)
Chùa Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn ĐồngChầm (Hòn Vượn), phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 14 km về hướng Tây. Chùa thuộc Hệ phái Phât giáo Nam Tông (Kinh). Chùa do Tỳ khưu Giới Đức, bút hiệu Minh Đức Triều Tâm Ảnh thành lập. Năm 1988, hưởng ứng chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc của tỉnh, chùa đã làm đơn xin được 50,4 hecta để trồng cây gây rừng. Qua năm 1989, các sư đã vào lập trang trại, đào giếng, ươm cây giống …và xây dựng các công trình ở hai khu ngoại viện và nội viện. Chùa thiết kế thành 2 khu vực chính:
19/09/2020(Xem: 5178)
Chùa Huyền Không còn gọi là chùa Huyền Không 1, chùa Huyền Không Sơn Trung để phân biệt với chùa Huyền Không 2, chùa Huyền Không Sơn Thượng ở Huế. Chùa tọa lạc ở thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, thành phố Huế (cách chùa Thiên Mụ 3 km về phía tây) với diện tích khoảng 6.000 m2. Chùa thuộc Hệ phái Phật giáo Nam Tông (Kinh). Chùa Huyền Không được Sư Viên Minh, Sư Tịnh Pháp, Sư Trí Thâm và Sư Tấn Cănxây dựng vào năm 1973 tại Lăng Cô, bên chân đèo Hải Vân, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngôi chùa bấy giờ nhỏ, dựng bằng tre nứa.
15/09/2020(Xem: 9814)
Chùa tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa quay hướng Nam. Bên trái chùa, có chùa Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu. Chùa được Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung dựng vào cuối thế kỷ 17 tại ngọn đồi thấp Hoàng Long Sơn, có tên thiền thất Ấn Tôn. Năm Nhâm Thìn (1712), ngài Thiệt Diệu Liễu Quán, quê ở Phú Yên là đệ tử đắc pháp của Sơ tổ Minh Hoằng Tử Dung, được ngài truyền tâm ấn, trở thành đệ nhị Tổ. Ngài Thiệt Diệu Liễu Quán đã phát triển dòng thiền Lâm Tế cho đến ngày nay.
13/09/2020(Xem: 11084)
Thiền viện tọa lạc dưới chân núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1.450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ trung bình 200C, Bạch Mã là nơi có khí hậu mát mẻ, lý tưởng cho việc tu tập của Tăng, Ni, Phật tử và các chuyến tham quan, chiêm bái của du khách. Tên thiền viện lấy theo tên núi Bạch Mã. Chữ “Trúc Lâm” hàm ý đến dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và mang tính nhập thế.
11/09/2020(Xem: 4028)
Chùa Hà Trung tọa lạc ở làng Hà Trung, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 50 km. Chùa được lập vào thời Hậu Lê, gắn với hành trạng Thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư từ Quảng Đông, Trung Quốc sang Quy Nhơn lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cử ngài đến trụ trì chùa Hà Trung. Ngôi chùa ngày nay được trùng tu năm 1995, đại trùng tu năm 2009. Trụ trì chùa là Hòa thượng Thích Chơn Tế (trụ trì chùa Tường Vân, Huế kiêm nhiệm), Tri sự là Đại đức Thích Quảng Huệ.
11/09/2020(Xem: 4584)
Thông Điệp Của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN thân gởi Chư Tôn Đức Tăng Ni và Đồng Bào Phật tử Hải Ngoại)
09/09/2020(Xem: 4186)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
07/09/2020(Xem: 6512)
Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long (trên đất làng Thụy Lôi xưa, gần xóm Lịch Đợi), đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714. Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
05/09/2020(Xem: 6832)
Chùa Giác Lâm tọa lạc tại số 02 kiệt 56 đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nguyên là một thảo am do Tổ Giác Hải, người làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị khai sáng vào ngày 16 tháng 3 năm Đinh Dậu (1897) trên một triền đồi, dưới chân núi Ngự Bình, đặt tên Duy Tôn Tự để truyền bá chánh pháp, đem đạo Phật phổ hóa vào những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tổ có thế danh là Nguyễn Văn Cẩm, sinh trưởng trong một gia đình tín tâm với đạo Phật. Ngài là đệ tử của Tổ Tâm Tịnh, khai sáng Tổ đình Tây Thiên, Huế. Ngài có pháp danh là Trừng Nhã, tự Chí Thanh, hiệu Giác Hải.
16/12/2019(Xem: 5296)
Chùa do Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) khai sáng vào đầu thế kỷ XVIII. Thiền sư là đệ tử đắc pháp của Hòa thượng Minh Hoằng - Tử Dung, được Hòa thượng trao tâm ấn năm 1712. Bấy giờ, chùa đã trở thành một đạo tràng lớn, có hàng vạn đệ tử học đạo, nghe pháp. Trong ba năm 1733, 1734 và 1735, Thiền sư đã mở ba Đại giới đàn truyền giới cho hàng vạn người tại chùa. Năm 1740, Thiền sư mở đại giới đàn Long Hoa ở kinh thành; năm 1742 mở Đại giới đàn tại chùa Viên Thông, nơi ngài khai sơn trước chùa Thiền Tôn. Thiền sư viên tịch năm Nhâm Tuất (1742), bảo tháp dựng ở một triền núi phía Đông Nam chùa vào tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), la thành bao quanh đồi tháp được xây vào năm 2001 nhân dịp đại trùng tu ngôi tổ đình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567