Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Rồng Trên Nóc Chùa

18/01/201705:40(Xem: 26670)
Rồng Trên Nóc Chùa
RỒNG TRÊN NÓC CHÙA
 
Nguyễn Thiếu Dũng
 
Những ngày đi lễ chùa ta thường thấy một cặp rồng trang trí ngất ngưỡng trên nóc chùa. Hình tượng này thường thấy trên nóc chùa ở nước ta, chứ ít khi thấy trên nóc chùa Trung Hoa, phải chăng là biểu tượng đặc trưng của ta?
 



Chua Dieu Ung Bac Kinh
Chua Viet
chuamotcot

 

Chùa Một Cột

 tuvienquangduc_3

Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu





Người ta thường gọi tên cặp rồng này không thống nhất, có người gọi là lưỡng long tranh châu, có người nói là lưỡng long triều nguyệt, có người bảo là lưỡng long triều nhật, ai đúng và mấy ai hiểu được ý nghĩa sâu xa của món trang trí này.

Lưỡng long tranh châu thì chắc là sai, đạo Phật là đạo hiếu hòa đề cao từ bi hỉ xả lẽ đâu chùa lại treo trước mắt tín đồ biểu tượng của dục vọng, xiển dương tranh chấp, biểu tượng đặt nơi chốn trang nghiêm trên nóc chùa nóc đình hay cung điện phải là biểu tượng của sự thái bình an lạc, thái hòa không thể biểu thị sự tranh chấp giữa hai thế lực mang lại nỗi bất hạnh cho con người. Có người ngụy biện hòn ngọc tượng trưng cho tâm linh cao quý, dầu bất cư thứ gì mà đã tranh là đi ngược giáo lý đạo Phật rồi, ngay cả ham muốn lên Niết bàn còn phải diệt huống gì là tranh.

Lưỡng long triều nguyệt cũng không đúng, vòng tròn ở giữa chung quanh có một vành lửa bao bọc, vòng đó là mặt trời, mặt trời mới phát chất nóng ra chung quanh hình dung bằng vòng lửa. vậy tên chính xác của cặp rồng quen thuộc chỉ có thể chính danh là lưỡng long triều nhật mà thôi.

 

Lưỡng long triều nhật là biểu tượng đặc trưng của Việt Nam vậy nguồn gốc nó do đâu mà có. Đó chính là hình tượng cách điệu của TRUNG THIÊN ĐỒ, một đồ quan trọng của Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam.

 

Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên, có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn gọi là Địa, tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm gọi là Thủy, tượng là nước, là cá (ngư). Ly gọi là Hỏa, tượng là lửa. Cấn gọi là Sơn, tượng là núi. Đoài gọi là Trạch, tượng là đầm (hồ). Chấn gọi là Lôi, tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn gọi là Phong, tuợng là gió, là cây (mộc).

Theo thuyết tam tài  trên có trời, dưới có đất, giữa có người, như thơ Nguyễn Du “Đội trời đạp đất ở đời”, có thiên có địa tất phải có nhân, nói cách khác có tiên có hậu thì phải có trung. Dịch Trung Hoa chỉ phổ biến hai đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên, họ thiếu một đồ thứ ba.

Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam “cất giấu” trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. (Dịch đồ này đã được chứng minh trong sách KINH DỊCH DI SẢN SÁNG TẠO CỦA VIÊT NAM của tác giả Nguyễn Thiếu Dũng, là đồ tối quan trọng để viết Quái, Hào từ Kinh Dịch)

Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc “Con Rồng cháu Tiên’’ chứa đựng di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh thì sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ, có thể ký hiệu bằng quẻ Càn, tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thủy phủ, ký hiệu là quẻ Khảm, tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là  Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc Phú Thọ), lâu ngày cây hóa thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng. Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Như vậy, Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được  tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở với nhau lâu được, nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống biển, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên nhau”. Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thủy) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hỏa). Truyền thuyết kể tiếp: “Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang”. Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn, có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ.

Ta có thể chia Trung Thiên Đồ thành hai vế: A: Càn Đoài Tốn Khảm và B: Khôn Chấn Cấn Ly.

Vế A biểu tượng cho Lạc Long Quân (Càn), hình dạng con Rồng Dương với Càn 3 vạch liền (đầu rồng), Đoài Tốn đều có hai vạch hai bên (thân rồng), Khảm một vạch ở giữa (đuôi rồng).

 

   

Rong tren noc chua_Nguyen Thieu Dung

 

Hai con rồng Âm Dương này cùng châu đầu vào quẻ Càn đặt ở phương Nam, cực dương biểu tượng mặt trời có ngọn lửa bao quanh. Đó chính là “lưỡng long triều nhật” thường thấy trên các mái đình, mái chùa, một dạng cách điệu của Trung Thiên Đồ.

Rồng Lạc Long Quân có đuôi là quẻ Khảm nên luôn liên hệ với nước.

Rồng Âu Cơ có đuôi là Ly nên luôn liên hệ với lửa, lại còn có Cấn/Sơn vì vậy thường ở núi. Rồng Âm Âu Cơ biến thể thành chim Phượng, hay là Tiên.

Lưỡng long triều nhật, chính là TRUNG THIÊN ĐỒ được cách điệu, đó là di sản tinh thần của dân tộc, là chứng tích được bảo lưu một các trang trọng tôn nghiêm hiện hữu trước mắt chúng ta để nhấn mạnh KINH DỊCH LÀ DI SẢN SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI VIỆT.

 

Ta thường dùng từ lưỡng long, nhưng Trung Quốc hiếm dùng họ thường dùng từ song long hay nhị long. Ta gọi lưỡng là cặp hàm nghĩa có đôi đực  cái, âm dương vì ta trọng nguyên lý âm dương đã đúc kết nên Kinh Dịch. Vạn vật bao giờ cũng có sự hòa hợp giữa âm và dương, vạn vật cỏng âm bồng dương, nên dân tộc ta hiếu hòa. Trung Hoa ngược lại là dân du mục hiếu chiến, họ thích tranh chấp, xâm lấn nên hảo dùng song long, nhị long chỉ hai con rồng chứ không phải cặp rồng để yêu thương hòa hợp, mà gặp nhau là đấu nhau, giành nhau, hơn thua với nhau, với họ song long tranh châu, nhị long tranh châu là biểu trưng rất phổ biến.

 

Lưỡng long triều nhật trên nóc chùa Việt Nam là biểu tượng hòa bình, là lời kêu gọi yêu thương đùm bọc lẫn nhau, sưởi ấm cho nhau dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời chứ đừng gieo giá lạnh vào đời nhau.

 

Đầu xuân đi lễ chùa, lễ đình xin hãy gọi đúng tên LƯỠNG LONG TRIỀU NHẬT hay LƯỠNG LONG TRIỀU NAM như một lời tri ân tổ tiên của CON RỒNG CHÁU TIÊN.

 

 

NGUYỄN THIẾU DŨNG

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2022(Xem: 2653)
Chùa Kim Quang tọa lạc tại thôn Thủy Tú, xã Vĩnh Thái (xưa là làng Vĩnh Xương), thành phố Nha Trang. Sở dĩ tăng ni, Phật tử phải gọi thêm 2 từ “Thủy Tú” liền theo là để phân biệt với ngôi chùa ni trùng tên trên đường Mê Linh ở trung tâm thành phố. Hòa thượng Thích Ngộ Thể (1862-1927), húy Thanh Lâm, dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 39, khai sơn lập tự vào năm 1910. Sau khi Tổ viên tịch, chùa được làng quản lý, cắt cử người thủ tự luân phiên trông nom cho đến khi thỉnh được Hòa thượng Thích Trừng Tâm, phái Lâm Tế chánh tông đời thứ 42 về trụ trì.
07/02/2022(Xem: 3909)
Tổ Đình Sắc Tứ Liên Hoa Tự, thường được gọi là chùa Liên Hoa, tọa lạc tại thôn Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc, là một ngôi chùa có xuất xứ lâu đời, khoảng 300 năm. Ngày nay, tên chùa được đặt cho tên con đường liên thôn xã, nên địa chỉ của chùa là: số 74 đường Liên Hoa. Xưa, chùa có tên là “Linh Phong Tự”, do Thiên sư Chân Hòa, thuộc dòng Lâm Tế khai sơn tạo dựng vào cuối thế kỷ XVII, nằm trên địa phận làng Xuân Phong, huyện Vĩnh Xương,
02/10/2020(Xem: 5299)
Chùa An Dưỡng, Xã Vĩnh Thái, Nha Trang
09/09/2020(Xem: 5108)
Vào sáng ngày 06/9/2020 (nhằm 19 tháng 7 âm lịch), tại ngôi chùa còn mới lạ mang tên Kỳ Viên Khánh Phú, tại xã Khánh Phú, huyện miền núi Khánh Vĩnh, đã diễn ra buổi lễ Vu Lan Báo Hiếu - Cúng Dường Trai Tăng, với đầy đủ nghi thức trang nghiêm, cùng các tiết mục “Bông Hồng Cài Áo”, “Dâng Hoa Cúng Dường” mang đậm niềm tôn kính tri ân, và tình yêu thương rộng lớn của những người con Phật luôn hướng về một ngày mai tươi sáng an vui dưới Ánh Đạo Vàng…
31/07/2020(Xem: 3869)
42 năm! Con số của thời gian vụt trôi... Năm 1977, tôi tình nguyện đăng ký đi Thanh Niên Xung Phong lúc tuổi 17 "bẽ gãy sừng... bò tót", gia nhập đội ngũ áo xanh, nón tai bèo, thuộc A1, B1, Tiểu Đoàn TNXP Đất Sét. Đóng quân tại Đất Sét 1. Đất Sét! Vùng KInh Tế Mới "quyện theo nước dòng Sông Chò" và "dưới chân Hòn Dữ đêm đêm tỏa sương mờ"... Cuối năm 1978, tôi rời Đất Sét, chuyển vùng ra KTM Nhiễu Giang ngoài Phú Yên, nhủ lòng "một về không trở lại"... Quay lại làm chi nữa?Có gì đâu để mình phải quay lại? Tưởng là vậy sau hơn 40 năm, hơn nửa đời người, nhưng không ngờ, sáng nay, tôi lại chuẩn bị lên đường quay trở lại vùng đất hoang vu ma thiêng nước độc năm xưa…
19/11/2019(Xem: 3559)
Vào thập niên 50 của thế kỷ trước, đất Thị Cầu - Phú Đông (thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) còn là một vùng rừng đồi hoang vắng thâm u thưa thớt dấu chân người qua lại, chỉ có một vài con lộ nhỏ đã thành đường mòn e dè mở lối liên thông giữa các thôn ấp đi ngang qua những ngọn đồi thoai thoải rậm rạp cỏ cây và gai góc… Năm 1956, Sư Thích Đạt Thông, pháp hiệu Tánh Tang, xuất gia tu hành theo Thiên Thai Giáo Quán Tông (là dòng thiền Việt Nam xuất phát từ Thiên Thai Giáo Tông của Trung Quốc, vị Tổ khai sáng là Thiền sư Hiển Kỳ, pháp danh Nhiên Công, quê ở Cần Giuộc - Long An), vốn là dân ở xã Phú Hữu lân cận đã lặn lội về vùng rừng đồi hoang sơ này, lặng lẽ khai hoang mở lối, tạo dựng tịnh cốc mái tranh vách đất sơ sài để làm nơi an trú và tịnh tu trên lưng chừng một ngọn đồi…
10/09/2019(Xem: 5637)
Đất trời đã vào Mạnh Thu... Những cây phượng vĩ tán xòe vẫn còn vấn vương với mùa hè mà khoe sắc hoa đỏ lòe chung quanh triền đồi sân bãi của chốn già lam thánh chúng Kim Sơn Sắc Tứ. "Khóa Tu Mùa Thu" đã diễn ra được đến ngày thứ ba, ngày cuối cùng, giữa không gian yên bình với ngập tràn cỏ hoa cây lá và nắng đẹp trời trong. Ai về tu cứ về, cứ tu. Công trình thi công xây dựng ngôi đại hùng bảo điện vẫn tiếp tục với nhịp điệu khoan thai, lặng lẽ, không ồ ạt om sòm như những lần trộn đổ bê-tông móng sàn. Vài chị phụ hồ đang lặng thầm trộn vữa, đẩy xe kutkit nhịp nhàng cung cấp vật liệu kịp thời cho những người thợ lành nghề dang mình dưới nắng đang lên những bức vách gạch đỏ của tầng lầu chánh điện,
07/09/2019(Xem: 21194)
ây là hành trình 15 năm của bộ đôi tác giả, trải dài từ năm 2004-2019, ghi nhận trên 250 kỷ lục Phật giáo Việt Nam được xác lập bởi 160 Tự viện Phật giáo. Nhóm tác giả dựa trên hai tiêu chí cho quyển sách: Chùa được công nhận di tích văn hóa- lịch sử và chùa có kỷ lục được xác lập.
20/06/2019(Xem: 4696)
Như thông lệ hàng năm với 4 khóa tu Xuân - Hạ - Thu - Đông, Khóa Tu Mùa Hạ năm nay được chùa Sắc Tứ Kim Sơn tổ chức vào các ngày 18,19,20,21/7/2019. Thương mời Đại chúng cùng về chùa thực tập ăn cơm chánh niệm, thiền hành, thiền tọa, tụng kinh, nghe pháp thoại, chia sẻ pháp đàm và hát thiền ca cùng Quý Thầy - Quý Sư Cô giữa không gian xanh mát của núi đồi Kim Sơn. Khóa tu còn là cơ hội để quý vị trở về và tiếp xúc với một nếp sống giản dị - bình an, tập nhìn lại chính mình giữa cuộc sống bận rộn, hối hả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567