Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vụ Alexandre de Rhodes: Vô ơn đã xấu, nhận ba vơ công ơn còn xấu mặt hơn

05/12/201917:32(Xem: 2816)
Vụ Alexandre de Rhodes: Vô ơn đã xấu, nhận ba vơ công ơn còn xấu mặt hơn

Alexandre de Rhodes

Vụ Alexandre de Rhodes:
Vô ơn đã xấu, nhận ba vơ công ơn còn xấu mặt hơn




1. Ghi nhận sự kiện, căn cứ tra cứu

Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng, trong bài viết “Chẳng ai sổ toẹt công lao của Alexandre de Rhodes” đăng trên Báo Tuổi Trẻ số ngày 30/11/2019, trang 3, có đặt vấn đề: “có lẽ nào chúng ta không cần biết ơn một người do họ có hạn chế về tư tưởng?”


2. Bình luận

Hạn chế về tư tưởng là Alexandre de Rhodes đã có công kích Nho, Lão, Phật trong tác phẩm của mình.

Trong đó, dĩ nhiên, đối với người theo đạo Phật là điều xúc phạm.

Nhưng nếu Alexandre de Rhodes có xúc phạm đạo Phật, nhưng ông thật sự có công, thì người Phật giáo cũng sẽ vẫn biết ơn.

Luận điểm ông Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng cũng là luận điệu những trang web người Việt lưu vong hải ngoại theo chủ nghĩa Diệm, những trang mạng xã hội trong nước thường đối kháng với chính quyền, rằng nếu không đặt tên đường Alexandre de Rhodes là “vô ơn”.

Vì vậy, bài viết này phản biện ý kiến của Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng, đại diện cho ý kiến hậu thuẫn việc đặt tên đường Alexandre de Rhodes ở Đà Nẵng.


Dân tộc Việt Nam, cũng như Phật giáo Việt Nam đều rất biết ơn những người có những đóng góp cho dân tộc, dù rằng đó là xây dựng bảo vệ đất nước, hay những cống hiến cho văn hóa, nghệ thuật, không phân biệt tôn giáo.

Không hiếm những người Công giáo có những đóng góp như vậy, chẳng hạn Nguyễn Trường Tộ là một trường hợp tiêu biểu.

Ở những trường hợp như vậy người đóng góp là vì lợi ích của dân tộc, xuất phát từ động cơ phục vụ đất nước, họ làm vì trách nhiệm trước Tổ quốc.

Dĩ nhiên, như thế thì dân tộc, đất nước ghi công, công từ cái tâm, cái lòng của họ. Cái tâm, cái lòng, thành ý, nguyện vọng phục vụ Tổ quốc là căn cứ quyết định để xác định công lao, ghi nhận sự biết ơn, mà việc chúng ta đang bàn cụ thể ở đây là đặt tên đường.

Xét trường hợp Alexandre de Rhodes, thì câu hỏi đặt ra, là cho dù đích thực đúng ông ta chế tác ra chữ quốc ngữ, thì ông ta không xuất phát từ động cơ phục vụ Tổ quốc chúng ta, mà ông phục vụ cho việc truyền đạo, nói đúng hơn là “CẢI ĐẠO” người dân Việt Nam.

Người Việt Nam, người tăng ni Phật tử Việt Nam không thể coi việc làm phục vụ cho mục tiêu CẢI ĐẠO lả một công ơn được.

Việc đặt tên đường Alexandre de Rhodes, dường như, đã có từ thời chính quyền Công giáo trị Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm (sau này chỉ là phục hồi tên đường). Mưu toan của chính quyền Công giáo trị Ngô Đình Diệm, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, là đánh đồng việc phục vụ cho Giáo hội Ca tô lích La Mã với việc phục vụ cho dân tộc Việt Nam, cũng như cách mà Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng, cũng như các trang mạng người Việt lưu vong hải ngoại và Diemist trong nước đang làm.

Việc đánh tráo đối tượng phục vụ như về kể trên, dù diễn ra trong hoạt động văn hóa, nó vẫn mang ý nghĩa chính trị và tôn giáo. Tôn vinh công ơn của việc làm có mục tiêu tôn giáo: CẢI ĐẠO của Alexandre de Rhodes vừa tác động tôn giáo, vừa có tác động chính trị.

Người theo Phật giáo có mà ngu muội đến nỗi đi biết ơn người đã chế tác CÔNG CỤ CẢI ĐẠO?

Người Việt Nam chân chính cũng đủ sáng suốt để nhận ra (và đó là một sự thật hiển nhiên) rằng Alexandre de Rhodes chế tác chữ quốc ngữ không phải để phục vụ cho đất nước Việt Nam.


Việc chế tác ra chữ Quốc ngữ không quan trọng, không phải là điều khó làm, không phải điều phi thường. Ngày nay, nhiều quốc gia có chữ viết không phải bằng mẫu tự La tinh đã làm được việc đó, nhưng họ không La tinh hóa chữ viết của họ, mà vẫn giữ chữ viết truyền thống.

Cho nên, khẳng định việc chế tác việc chữ quốc ngữ là không quan trọng, thì cũng lại là đồng thời xác định tầm quan trọng của quyết định đưa chữ quốc ngữ vào sử dụng chính thức.


Người ta nhắc đến công lao vua Khải Định trong quyết định này, cho nên, nếu biết ơn về việc đưa chữ quốc ngữ vào sử dụng chính thức để có kết quả như hôm nay, thì phải “biết ơn” Khải Định vua .


Liên quan đến “biết ơn” về chữ quốc ngữ, thì để đặt tên đường, phải đặt tên đường vua Khải Định mới đúng.

Nhưng Khải Định là một ông vua bù nhìn, văn bản của Khải Định ban hành chỉ có giá trị ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Cho nên “biết ơn” đặt tên đường phải dành cho toàn quyền Đông Dương, vì chủ trương phải là từ viên quan người Pháp này và có tác động trên cả ba kỳ. Còn Khải Định chỉ là người thừa hành, một thứ công bộc đội vương miện mà thôi.


Chính quyền Công giáo trị Ngô Đình Diệm, lãnh đạo tư tưởng Ngô Đình Thục chỉ muốn tri ân Alexandre de Rhodes vì lý do chính trị, chứ họ không hẳn vì lý do tri ơn người chế tác chữ quốc ngữ.

Nếu không có cuộc mất nước về tay người Pháp thì có thể chữ quốc ngữ chỉ dùng để các cha đạo nhà thờ đọc với nhau như trong buổi đầu nó mới được tạo ra.


Chữ quốc ngữ, nếu xét từ khía cạnh phản biện, nó là giải pháp mà chính quyền thực dân sử dụng để đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam.


Chính quyền Mao Trạch Đông, Trung Quốc, đã có những bước để đoạn tuyệt văn hóa truyền thống Trung Quốc. Bước một là tạo ra chữ giản thể và thành công. Đồng thời, bước hai là La tinh hóa và chỉ thành công một phần nhỏ, Trung Quốc vẫn giữ chữ tượng hình khối vuông. Bước ba là Đại Cách mạng Văn hóa.

Cho nên, chữ quốc ngữ không phải là một thành quả tự sự sáng tạo và lựa chọn của người Việt, mà nó là một thứ Đại Cách mạng Văn hóa của chính quyền thực dân Pháp. Trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa này, đạo Ca tô lích La Mã đóng vai trò chủ yếu.

Cái công ơn đưa chữ quốc ngữ thành một thứ chữ viết chính thức là một HÀNH VI CƯỠNG BỨC, trong hoàn cảnh quốc gia mất độc lập chủ quyền.

Nhận ơn ở đây thì đặt tên cho vị toàn quyền người Pháp có công chỉ đạo phổ biến chữ quốc ngữ trước, rồi hẳn mới đến ơn của các giáo sĩ chế tác ra chữ quốc ngữ.


Vì vậy, nguyên tắc “biết ơn” mà Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng nêu ra là một nguyên tắc vô ơn với những người đã chiến đấu hy sinh cho độc lập chủ quyền của đất nước, cho quyền tự quyết, tự định đoạt lựa chọn chữ viết của một dân tộc, mà không bị kẻ xâm lược áp đặt, kẻ bù nhìn quyết định.

Vô ơn là xấu, đi nhận công ơn một cách bá vơ xấu hơn, nhưng vô ơn với những người đã hy sinh bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc thì xấu xa ở mức cực điểm.


Như đã trình bày, vấn đề tên đường Alexandre de Rhodes có liên quan đến tôn giáo, cụ thể Alexandre de Rhodes là người đã xúc phạm Phật giáo.

Kêu gọi sự biết ơn nói chung, trong đó gồm có tăng ni và người theo đạo Phật là điều xuyên tạc, không phù hợp.

ĐỀ NGHỊ NGƯỜI PHÁT NGÔN PHẬT GIÁO LÊN TIẾNG NÓI RÕ Ở ĐIỂM NÀY. ĐỀ NGHỊ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM CÓ NHỮNG HOẠT ĐỘNG THÍCH HỢP ỦNG HỘ NHÓM PHÓ GIÁO SƯ TIẾN SĨ LÊ CUNG TRONG KIẾN NGHỊ CỦA QUÝ VỊ TRÍ THỨC NÀY.

Sự việc Dương Ngọc Dũng vừa rồi cho thấy quan chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam vẫn còn khả năng nhận thức về những vấn đề ảnh hưởng tiêu cực, lệch lạc đối với Phật giáo.


Dương Ngọc Dũng xúc phạm Phật giáo hôm nay chỉ là người tiếp nối luận điệu Alexandre de Rhodes khi xưa. Nhiều triệu tăng ni Phật tử (Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho rằng đến nhiều chục triệu) không thể là người biết ơn Alexandre de Rhodes.

Nếu thế thì người phát ngôn Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Thông tin Truyền thông Giáo hội Phật giáo Việt Nam nên có phản ứng một cách tương xứng, đừng để Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Cung đơn độc, cũng như đừng để những người như Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng chiếm lấy diễn đàn truyền thông, như đối với Báo Tuổi Trẻ.


Cụ thể trong trường hợp này, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần có văn bản gửi đến Báo Tuổi Trẻ cơ quan đăng bài của Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Dũng, thể hiện rõ quan điểm không đồng tình, khẳng định tăng ni Phật tử Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam không biết ơn Alexandre de Rhodes về việc chế tác chữ quốc ngữ, căn cứ khách quan lịch sử của quá trình chế tác, phổ biến chữ quốc ngữ.

Nếu Giáo hội Phật giáo Việt Nam im lặng, thì phải chăng đó là việc thiếu trách nhiệm trước một vấn đề liên quan đến “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”?


Việc bỏ mặc Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Cung, không có những hậu thuẫn cần thiết, trong bối cảnh truyền thông dầu sôi lửa bỏng, là một hình ảnh rất xấu cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam, khiến những trí thức gắn bó với Phật giáo Việt Nam, với Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ mất đi tình cảm với đạo Phật và Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tránh xa những vấn đề liên hệ đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Nếu Giáo hội Phật giáo Việt Nam im lặng trước việc một cơ quan truyền thông như do nhà nước quản lý như báo Tuổi Trẻ ủng hộ mạnh mẽ đến mức chưa từng có việc đặt tên đường cho một người đã xúc phạm đạo Phật là Alexandre de Rhodes thì đó là một tiền lệ nguy hiểm đối với những trường hợp tương tự.


Minh Thạnh
http://www.phattuvietnam.net/vu-alexandre-de-rhodes-vo-on-da-xau-nhan-ba-vo-cong-on-con-xau-mat-hon/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2011(Xem: 4072)
Sách vở, báo chí, dân chúng ở miền Nam trước đây gọi chế độ ông Diệm là độc tài, hoặc độc tài gia đình trị. Dictature, despotisme, tyrannie, autocratie, despotisme oriental ... tất cả những khái niệm chính trị đó của phương Tây đều có thể áp dụng được - và đã áp dụng - cho chế độ Ngô Đình Diệm. Tôi dùng chữ "toàn trị" ở đây trước hết là để nhấn mạnh một trong hai tiêu chuẩn chính mà Hannah Arendt đã dùng để định nghĩa khái niệm totalitarisme : ý thức hệ. Chế độ ông Diệm đã khẩn trương dựng lên từ đầu và càng ngày càng bắt dân chúng nuốt một thứ chủ nghĩa mà chẳng ai hiểu là gì : chủ nghĩa nhân vị.
14/06/2011(Xem: 7006)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4129)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5673)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5808)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5125)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4465)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4253)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4272)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5694)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567