Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chấn hưng Phật giáo: Phật giáo Việt Nam đã là thiểu số?

06/11/201203:51(Xem: 5150)
Chấn hưng Phật giáo: Phật giáo Việt Nam đã là thiểu số?

chanhungphatgiao-minhthanhGần đây, trên một số bài viết đăng trên các trang mạng Phật giáo, có nhiều con số thống kê được đưa ra. Đáng chú ý là trong một bài viết về đề tài hoằng pháp, có ý kiến phản hồi nghi ngờ về sự chính xác của số lượng Phật tử tại Việt Nam dẫn lại theo Wikipedia.

Những con số đáng quan tâm khác là số lượng tín đồ Phật giáo giảm mỗi năm 4% trên thế giới, dự kiến Phật giáo sẽ triệt tiêu vào khoảng năm 2050, hay tác giả Thích Thanh Thắng dẫn lại số liệu Phật giáo gia tăng 2%, so sánh với mức gia tăng 10% của Thiên Chúa La Mã và 600% của Tin Lành.

Từ đó, tôi quan tâm nhiều hơn đến các số liệu thống kê số lượng tín đồ Phật giáo tại Việt Nam.

Tình cờ, tôi được một người quen tặng để tham khảo quyển sách “Tình bác ái Đức Ki tô thúc đẩy chúng ta”, tác giả được ghi là “Ủy ban Bác ái Xã hội Caritas Việt Nam”, thông tin xuất bản ghi “Lưu hành nội bộ 2010”, với chú thích bổ sung ở trang 1 ghi “Bản góp ý và tài liệu kèm theo trong Đại hội Dân Chúa Việt Nam(21 – 25/11/2010)”.

Vì đây là một tài liệu kèm theo Đại hội nói trên, nên nó trích dẫn rất nhiều số liệu. Tìm ở trang 23, trong bài “Xin hãy nhìn vào thực tế của Giáo hội và xã hội Việt Nam – Bản góp ý của UBBAXH-Caritas Việt Nam trong Đại hội Dân Chúa Việt Nam” của Linh mục An tôn Nguyễn Ngọc Sơn, Giám đốc Caritas Việt Nam, thấy có dẫn lại thống kê về số lượng tín đồ các tôn giáo, có chú thích nguồn: Ban chỉ đạo Điều tra Dân số, Tổng Điều tra Dân số năm 2009, nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 8-2010, trang 281. Đoạn thông tin số liệu và bình luận như sau:

Dân tộc VN hiện nay, theo Kết quả Tổng Điều tra Dân số năm 2009, có 6.802.318 người theo Phật giáo (7,92%), 5.677.086 theo Công giáo (6,61%), 1.433.252 theo Phật giáo Hòa Hảo (1,66%), 807.915 theo đạo Cao Đài, 734.168 theo Tin Lành (0,8%), 75.268 theo Hồi giáo, 56.427 theo Bà La Môn giáo và các đạo nhỏ khác. Tổng số những người có tôn giáo là 15.651.467 trên tổng số 85.846.997 người, tính vào thời điểm 1-4-2009.

Như thế, số người có tôn giáo trong cả nước chiếm 18,23%, số còn lại không xác định tôn giáo và rất nhiều người theo đạo ông bà tổ tiên. Đây là một trách nhiệm lớn và cũng là một lợi thế lớn cho sứ mạng truyền giáocủa GHVN vì hơn 81% dân số chưa xác định được tín ngưỡng của mình (x. Ban Chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số, Tổng Điều tra Dân số năm 2009, NXB Thống Kê, Hà Nội, 8-2010, tr. 281).

Chúng tôi xin có một số ý kiến bàn luận những số liệu thống kê dẫn trên:

- Số lượng tín đồ Phật giáo tại Việt Nam, kèm theo đó là tỉ lệ được ghi nhận ở đây có lẽ là con số thấp nhất từ trước đến nay mà tôi được biết. Nó cho thấy tín đồ Phật giáo và Ca tô La Mã (Công giáo) đang tiến đến mức chêch lệch rất nhỏ, chỉ xấp xỉ hơn 1%.

- Đạo Tin Lành đã có số lượng lên đến mức xấp xỉ tôn giáo thứ 4 tại Việt Nam là đạo Cao Đài.

- Đáng chú ý hơn đây là số liệu trong một cuộc Tổng Điều tra Dân số vào loại gần đây, được công bố chính thức.

- Nếu liên hệ mức gia tăng tín đồ Phật giáo mỗi năm 2%, với của Ca tô La Mã là 10% và của Tin Lành 600% (dẫn theo tác giả Thích Thanh Thắng) thì chẳng bao lâu nữa Phật giáo sẽ tuột xuống mức tôn giáo đứng hàng thứ 2 Việt Nam về số lượng tín đồ, tức là tôn giáo thiểu số.

- Nếu tính theo tổng số người theo Cơ đốc giáo, tức là gộp chung tín đồ Ca tô La Mã, Tin Lành đủ mọi giáo phái…, theo kiểu như ở Hàn Quốc, thì mức chênh lệch tín đồ giữa Phật giáo và Cơ đốc giáo không là bao nhiêu vào năm 2009 và chắc chắn là tín đồ Cơ đốc giáo đã có số lượng vượt vào năm 2012. Như vậy, ước tính vào thời điểm hiện tại, suy ra từ các số liệu thống kê trên, Phật giáo có thể đã trở thành tôn giáo thiểu số tại Việt Nam không còn là tôn giáo có số tín đồ hàng đầu, hay như thường gọi, tôn giáo lớn nhất tại Việt Nam.

- Trong quyển sách dẫn trên, phía Ca tô La Mã có đưa ra số liệu thống kê tín đồ của riêng họ (trang 60): “Tính đến 31/12/2008, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 26 giáo phận, 2 Hồng y, 2 Tổng Giám mục, 40 Giám mục, 3541 Linh mục, 17.160 tu sĩ nam nữ, 6.187.486 tín hữu, trên tổng số 86.160.000 người, chiếm 7,18% dân số. Trong gần 50 năm qua, GHCGVN đã có thêm 5 giáo phận mới, số tín hữu tăng gấp 3, số linh mục tu sĩ tăng gấp đôi.

Hiện nay, nếu tính thêm số tín hữu Công giáo (khoảng 1 triệu) và số người Việt ở nước ngoài (khoảng 3 triệu) mà Giáo hội Việt Nam phần nào chịu trách nhiệm loan báo Tin mừng, tổng số tín hữu là 7 triệu trên 89 triệu người Việt, chiếm tỷ lệ 7,86% (X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên Giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2005, Phụ lục: Cộng đồng Công giáo Việt Nam Hải ngoại, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2005, tr 867-902)”.

Với cách tính gồm cả người Việt ở hải ngoại, đối chiếu với các số liệu thống kê, gộp chung Tin Lành vào khái niệm Cơ đốc giáo, thì với mức gia tăng như trên, hiện nay, năm 2012 Phật giáo Việt Nam đã là tôn giáo thiểu số, theo kiểu như cách tính ở Hàn Quốc (Phật giáo Hàn Quốc được coi là tôn giáo thiểu số nếu so với Cơ đốc giáo, hay còn gọi là Ky tô giáo, không phải so với riêng Ca tô La Mã hay Tin Lành, mà ở Hàn Quốc có rất nhiều giáo phái).

MT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6968)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4066)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5629)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5774)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5102)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4436)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4223)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4240)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5668)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6397)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567