Tranh chấp quyền tác giả của tập thơ “Việt Nam thi sử hùng ca”
Ngày 7/9, TAND TPHCM mở phiên tòa xét xử vụ tranh chấp quyền tác giả, tác phẩm và bồi thường thiệt hại giữa nguyên đơn là ông Hồ Thanh Bửu (bút danh Mặc Giang) và Phạm Văn Xua (bút danh Nhật Thu), bị đơn là ông Trần Trí Trung.
Theo nội dung vụ án, tháng 12/2005, ông Bửu và ông Xua mang tác phẩm “Việt Nam thi sử hùng ca” đến nhà xuất bản Văn Nghệ TPHCM để xin phép xuất bản. Nhưng sau đó ông Bửu và Xua nhờ ông Trần Trí Trung mang bản thảo tập thơ này đến xin giấy phép tại nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM.
Một thời gian sau, nguyên đơn phát hiện tập thơ “Việt Nam thi sử hùng ca” đã được xuất bản và phát hành. Tuy nhiên, tác phẩm này lại ghi tên tác giả là Trần Trí Trung. Bản thảo tập thơ (xem nội dung)
Nguyên đơn đã khiếu nại tại nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM và chứng minh các câu thơ từ trang số 9 đến trang số 30 là của tác giả Mặc Giang, khoảng 900 câu thơ mở đầu trong tập thơ đã bị ông Trần Trí Trung hoán chuyển, thay thế đảo vị trí...
Ngày 13/4/2007, nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM có mời nguyên đơn đến đối chất trực tiếp với ông Trần Trí Trung. Tại buổi làm việc này, ông Trần Trí Trung đã thừa nhận có sử dụng tác phẩm của Mặc Giang và hứa sẽ xin lỗi bằng văn bản và bồi thường thiệt hại cho tác giả Mặc Giang.
Nhưng sau đó, vào ngày 24/4/2007, ông Trần Trí Trung làm bản tường trình gửi đến nhà xuất Bản Tổng Hợp TPHCM phủ nhận việc “đạo thơ” của Mặc Giang và lý giải vòng vo, không có thiện chí xin lỗi và bồi thường.
Sau đó, ông Bửu và ông Xua đã khởi kiện yêu cầu ông Trần Trí Trung. Nguyên đơn yêu cầu ông Trung phải thừa nhận tác phẩm “Việt Nam thi sử hùng ca” là của đồng tác giả Mặc Giang - Nhật Thu, đồng thời buộc bị đơn phải chấm dứt hành vi vi phạm quyền tác giả, tác phẩm đối với tác phẩm này.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện ủy quyền của nguyên đơn trình bày hàng loạt chứng cứ chính minh tập thơ “Việt Nam thi sử hùng ca” không phải của ông Trần Trí Trung.
Tại tờ khai lúc 8h30 ngày 17/4/2015, bà Doãn Thị Minh Trâm, đại diện Nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM, trình bày: “Năm 2006, theo hợp đồng liên kết xuất bản ký giữa nhà xuất bản với ông Trung, nhà xuất bản cấp giấy phép cho ấn phẩm “Việt Nam thi sử hùng ca” cho tác giả Mặc Giang, còn bản thảo gốc về tác phẩm của ông Mặc Giang sau 5 năm đã bị hủy theo quy định nên không có chứng cứ cung cấp cho tòa án”.
Sau khi xem xét toàn bộ nội dung vụ án, HĐXX quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận tập thơ Việt Nam sư thi hùng ca đúng là của đồng tác giả Mặc Giang (Hồ Thanh Bửu) và Nhật Thu (Phạm Văn Xua). Đồng thời, tòa cũng tuyên buộc bị đơn chấm dứt hành vi xuất bản, tái bản, lưu hành bằng mọi hình thức tập thơ nói trên.
Xuân Duy - Hoài Nam
**
***
Lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam: Sân chơi thiếu công bằng cho nhiều tác giả.
Hòa An
14/10/2017 07:01
Đó là ý kiến của luật sư Đậu Thị Quyên - đồng sáng lập và là CEO của Trung tâm Tư vấn quản trị tài sản trí tuệ Việt Nam (VIPMAC) - khi nhận định về hàng loạt vụ việc sử dụng không xin phép tác phẩm của người khác xảy ra trong lĩnh vực xuất bản thời gian gần đây.
Chuyện tác phẩm "Hoa cúc áo"
Gần đây, giới văn học xôn xao khi nhà văn Trần Đức Tiến lên tiếng về việc tác phẩm “Hoa cúc áo” của ông bị Công ty CP mỹ thuật và truyền thông - Nhà xuất bản (NXB) Giáo dục Việt Nam - sử dụng dưới tên một tác giả khác (Thu Hương) và chuyển thể sang truyện tranh mà không hề xin phép. Thậm chí, họ đã tái bản cuốn sách có tác phẩm này tới lần thứ tám mà ông không hay biết.
Tương tự, tác phẩm “Kỳ nhông trốn tìm” của ông cũng bị đơn vị này lấy in và tái bản mà không hỏi ý kiến tác giả, thậm chí còn tự ý thêm chữ “chơi” vào trong tiêu đề truyện.
Ngay sau khi biết được phản ứng của nhà văn, Công ty CP mỹ thuật và truyền thông đã gửi công văn đến Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam - đơn vị được ông Tiến ủy quyền - giải thích sự việc và đề xuất phương án bồi thường. Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Tiến thì “họ không thẳng thắn thừa nhận sai lầm, không tích cực tìm cách sửa sai”.
Sau đó, Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam đã có công văn phản hồi nêu rõ, hành vi của công ty trên đã xâm phạm nghiêm trọng các quyền của tác giả theo quy định tại điều 28, Luật SHTT và yêu cầu bồi thường hơn 100 triệu đồng. Đến nay, công ty vẫn chưa có phản hồi.
Nhận định về sự việc trên, luật sư Đậu Thị Quyên nói: “Tôi không được tiếp xúc với hồ sơ mà chỉ biết thông tin qua báo chí nên không khẳng định Công ty CP mỹ thuật và truyền thông có vi phạm hay không và vi phạm những điều khoản nào của Luật SHTT. Dựa vào dữ liệu các bên trình bày được báo chí đăng tải, tôi cho rằng để giải quyết được tranh chấp, cần làm rõ tác phẩm “Hoa cúc áo” thuộc quyền sở hữu của ai, của nhà văn Trần Đức Tiến hay đơn vị tổ chức cuộc thi mà ông đã gửi tác phẩm tham dự vào năm 2005 - tức NXB Giáo dục Việt Nam. Nếu như điều lệ cuộc thi quy định rõ đơn vị tổ chức được toàn quyền sở hữu các tác phẩm dự thi (thông thường là như vậy) thì ông Tiến chỉ có quyền nhân thân (quy định ở điều 19 Luật SHTT) đối với tác phẩm “Hoa cúc áo” và chủ sở hữu - tức NXB - sẽ có quyền tài sản, quy định tại điều 20 Luật SHTT. Nếu hai bên không có thỏa thuận về quyền sở hữu thì mới xem xét vấn đề “Hành vi vi phạm quyền tác giả” ở điều 28 Luật SHTT mà Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam nêu ra trong công văn. Tôi được biết NXB cũng đã chú thích “Dựa theo truyện cùng tên của Đức Tiến” ở trang bìa lót”.
Tác giả cần thiết lập cuộc chơi
Vị luật sư này cũng cho biết: “Thực tế, bản quyền trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam là một sân chơi thiếu công bằng cho nhiều tác giả và người sáng tạo. Các vi phạm điển hình thường đến từ phía NXB hoặc bên thứ ba mạo danh tác giả, không xin phép, không trả tiền nhuận bút, thù lao... Đơn cử, mới đây, nhà thơ Mặc Giang và Nhật Thu mang tác phẩm “Việt Nam thi sử hùng ca” do họ sáng tác đến nhờ ông Trần Trí Trung xin giấy phép xuất bản giúp. Tuy nhiên, khi tác phẩm này được in thì hai nhà thơ tá hỏa vì tên tác giả in trên tập thơ là... Trần Trí Trung!”.
Nhận xét về hành vi NXB không xin phép tác giả khi sử dụng tác phẩm của họ, ông Nguyễn Kiểm - Phó Chủ tịch thường trực Hội Xuất bản Việt Nam - cho rằng: “Không xin phép tác giả là hành vi vi phạm cả về pháp lý và đạo lý, không thể chấp nhận được. Đó cũng là một dạng trộm cắp tài sản, ở đây là tài sản trí tuệ”.
Theo luật sư Quyên, để hạn chế tình trạng bị dùng tác phẩm không phép, các tác giả cần thiết lập luật chơi ngay từ đầu: “Họ phải nắm rõ các quy định của Luật SHTT về quyền nhân thân, quyền tài sản để quyết định có bán đứa con tinh thần cho bên nào hay không, bán trong thời hạn bao lâu và trong phạm vi nào, để hai bên có cơ sở khai thác tác phẩm một cách rõ ràng. Đồng thời, các tác giả cũng cần lưu chứng tác phẩm gốc ngay sau khi sáng tạo để đảm bảo không phát sinh tranh chấp về bản quyền trong tương lai. Trong môi trường kỹ thuật số và văn hóa ứng xử với bản quyền chưa nghiêm minh như Việt Nam, các tác giả cần vận dụng tốt các biện pháp bảo vệ mình trong trường hợp xảy ra tranh chấp, như các biện pháp hành chính, dân sự... đã được quy định cụ thể trong luật” - luật sư Đậu Thị Quyên nói.
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
Để đánh dấu sự hoàn thành Trung Tâm Giáo Dục Phật Giáo Thế Giới của Pháp Cổ Sơn, Hoà thượng Thích Thánh Nghiêm, 76 tuổi, bạn học đồng trường sau khoá với HT. Thích Trí Quảng tại đại học Rissho, Nhật Bản, đã có sáng kiến tổ chức ba toạ đàm quốc tế vào ngày 20 và 22-10-05, với chủ đề: “Từ Nội Tâm đến Nhãn Quan Toàn Cầu.”
Tình cờ tôi thấy trong thư viện đại học Wisconsin-Madison bài "The Buddhist Approach to Education", đăng trong tờ Vạn Hạnh cách đây hơn hai mươi năm của Giáo Sư Đoàn Viét Hoạt. Nhận thấy đây là một bài viết đặc sắc nói lên trung thực phần nào thực chất Phật Giáo và quan niệm giáo dục của Phật Giáo cho nên tôi dịch ra tiếng Việt để cống hién quý độc giả; và cũng để ghi nhận sự đóng góp cho Phật Giáo của Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt trong vấn đề giải hoặc một số ngộ nhận về Phật Giáo mà vì lẽ nào đó đã kéo dài trong tâm cảnh ngay cả những lãnh tụ "tôn giáo bạn" cho tới tận ngày nay.
Đạo Phật, đạo của từ bi và trí tuệ, luôn luôn tôn trọng và đề cao cuộc sống của tất cả chúng hữu tình. Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì muốn mang hoà bình và hạnh phúc đến cho chư thiên và loài người. Thực vậy, từ xưa đến nay, Đạo Phật đã không bao giờ đem khổ đau cho bất cứ ai. Đạo Phật chỉ đưa ra con đường chuyển hoá đau khổ cho những ai có tâm tìm hiểu và mong muốn để đạt đến con đường đó. Đó là lời mở đầu của Sư cô Thích nữ Giới Hương trong buổi hội thảo về Quan điểm của Phật giáo về án tử hình tại chùa Phước Hậu Milwaukee ngày 28-10-2006.
Tôi được biết hiện nay có ít nhất là hai đoàn thể cư sĩ Phật giáo tại Hoa Kỳ người Việt và người bản xứ, tự xưng là Tăng đoàn Phật giáo mặc dầu không có một vị Tăng hay Ni nào trong tổ chức. Họ tự gọi là “Tăng thân” gì đó (không liên hệ gì đến giáo hội Làng Mai), hoạt động độc lập, tự tổ chức các khoá tu học, giảng đạo lý, hành thiền. Họ không thuộc bất kỳ một tổ chức giáo hội hay tự viện nào. Vậy xin hỏi quý ban biên tập tăng đoàn là gì và một tập hợp cư sĩ có thể là một tăng đoàn không?
Tôi là một Ni sinh, hiện đang học Trường TCPH TP.HCM. Trước đây, khi học xong chương trình phổ thông, huynh đệ và bạn bè đều khuyên thi đại học (các trường đại học bên ngoài) nhưng tôi nghĩ học đạo ở các trường Phật học là đủ rồi nên vẫn giữ quyết định của mình. Đến nay, được tin sư chị thi đậu đại học thì vừa mừng cho chị ấy, vừa cảm thấy tủi cho bản thân mình. Đôi khi, trong lòng cũng gợn buồn vì huynh đệ và gia đình có phần xem tôi là người thất bại trong chuyện học hành. Trong bối cảnh các Tăng Ni trẻ hiện nay học hành tất bật ở cả trường đạo lẫn trường đời, cả trong nước lẫn ngoài nước khiến tôi phân vân không biết quyết định trước đây của mình là đúng hay sai?
Bạn tôi là Phật tử và đã trót lỡ lầm mang thai với người yêu. Sau khi sự việc xảy ra, người yêu của bạn ấy đã chối bỏ trách nhiệm, còn gia đình thì giận dữ xua đuổi. Quá đau khổ và không biết chia sẻ cùng ai nên bạn ấy đã quyết định trút bỏ giọt máu của mình (thai nhi đã trên 1 tháng tuổi). Giờ đây, bạn ấy rất đau khổ, bị dằn vặt về việc làm của mình, bạn ấy mong muốn được sám hối. Xin quý Báo cho biết quan điểm của Phật giáo về tội lỗi phá thai và chỉ cho bạn ấy phương cách sám hối cùng những lời sẻ chia.
Tôi là Phật tử thường tham gia tu tập Bát quan trai. Tôi được biết trong giới luật nhà Phật có giới cấm không được ca hát và xem nghe. Tuy nhiên, tôi nhận thấy các chùa vẫn thường tổ chức văn nghệ, các Phật tử và chư Tăng cũng hay ca hát đạo ca trong các khóa tu và những dịp lễ. Vậy điều đó có mâu thuẫn không? Nếu không thì nên phát huy vì đạo ca làm cho người nghe nhớ mãi lời Phật dạy.
An tử, hay “cái chết êm đềm” được thực hiện bằng “máy tự tử” do bác sĩ Jack Kevorkian, chuyên nghiên cứu bệnh học tại nhiều bệnh viện khác nhau ở California và Michigan, thiết kế năm 1989 dưới tên gọi “mercitron”. Máy này nhằm giúp những người mắc bệnh nan y không còn cơ hội chạy chữa, chỉ còn sống lại những ngày tháng “chờ chết” trong đau đớn tột cùng được chết theo ý nguyện của họ, một cái chết “nhanh chóng, nhẹ nhàng” hơn là phải sống trong nỗi khổ đau giày vò triền miên.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.