Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật bốn chữ hay sáu chữ

10/03/201505:59(Xem: 8026)
Niệm Phật bốn chữ hay sáu chữ

         Phat Di Da

    


Niệm Phật bốn chữ hay sáu chữ

Nam mô A-Di-Đà Phật.

  

Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.

 Phật dạy chúng ta không tranh cãi với hàng Thanh-Văn, và với lòng kính chung tôi không có một vẩn đục ý ganh đua tranh cãi mà chỉ muốn đem đến giá trị đích thực những lời chỉ dạy của Phật và các chư đại Bồ-Tát về pháp môn tu hành Niệm Phật mà thôi. Theo tôi, khi chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng Kinh Niệm Phật ba-La-Mật Kinh Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ  hay các Kinh điển xưa nay về pháp môn Tịnh-Độ Phật và chư Đại Bồ-Tát đều khuyên chúng ta Niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà là Sáu chữ hồng danh Nam mô A-Di-Đà Phật, không hề thấy có một lời nào, câu nào nói là niệm bốn chữ như có vài người đã nói ra và bào chữa về việc này.

  Hơn nữa, đứng về Lý thì tôi thấy như sau:

A-Di-Đà Phật, bốn chữ này chỉ là nói về tên của Phật mà thôi.

Còn danh hiệu Ngài bao giờ cũng gắn với bản nguyện của Ngài là mong muốn tiếp-dẫn chúng sinh về Tây phương Cực-Lạc nếu như họ một lòng trì nguyện danh hiệu của Ngài, một lòng tha thiết nguyện được vãng sinh về đó, sám hối, làm các công đức lành như lời nguyện thứ 18, 19, 20 trong bốn mười tám lời nguyện của Phật A-Di-Đà. Chúng ta hãy đi nghiên cứu lại thật kỹ mấy lời nguyện quan trọng này của Ngài:

 

Điều nguyện thứ mười tám: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu không được toại nguyện thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê chính pháp.

Điều nguyện thứ mười chín: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh mười phương phát tâm Bồ-Đề, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện, muốn sinh về cõi nước con, tới khi thọ chung mà con chẳng cùng đại chúng hiện ra chung quanh trước mặt người ấy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu của con, để lòng nhớ nghĩ đến nước con, tu trồng các công đức, dốc lòng hồi hướng, cầu sinh về cõi nước con mà không được vừa lòng thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác.

 

Vì thế, danh hiệu của Ngài gắn với hai chữ Nam mô tức là Quy-mạng, là trao thân mạng hay ngắn gọn là hai chữ Nam mô gắn với tên Ngài.

 Đừng vội tin lời tôi hay bất kỳ ai nói mà tôi mong rằng bạn hãy nghiên cứu sâu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật và các Kinh điển khác của Phật để mà đối chiếu quán xét thực hư, chân, ngụy.

Nếu bạn nghiên cứu thật kỹ thì bạn sẽ thấy rõ Phật Thích-Ca Mâu-Ni và Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát đều không tách dời hai chữ Nam mô với bốn chữ A-Di-Đà Phật mà luôn nói trọn vẹn là Trì danh niệm Nam mô A-Di-Đà Phật và Danh hiệu của Phật A-Di-Đà liên tục được nói đi nói lại đều là Nam mô A-Di-Đà Phật, còn A-Di-Đà Phật chỉ là tên Ngài mà thôi.

 Phẩm thứ ba, Niệm Phật Công Đức trong Kinh này ngài Đại-Hạnh-Phổ-Hiền Bồ-Tát đã giải thích rất rõ về giá trị không thể thiếu của người niệm Phật về hai chữ Nam mô gắn chặt với tên của Ngài là: A-Di-Đà Phật và khuyên chúng ta phải niệm danh hiệu Ngài là sáu chữ Hồng danh Nam mô A-Di-Đà Phật trong khi thực hành pháp môn niệm Phật.

Trong các phần Nghi thức tụng niệm xưa nay của các vị Bồ-Tát, các vị Sư tổ đều có câu:

Phật A-Di-Đà Thân sắc vàng

Tướng tốt chói sáng không gì bằng

Lông mày trắng như năm Tu-Di

Mắt xanh trong giống bốn biển lớn

Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật

Ở phương Tây thế-giới an lành.

Con nay xin phát nguyện vãng sinh

Cúi xin đức từ-bi cứu độ.

 

Tôi đã phải in đậm câu Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật là vì có người khi thực hành bốn chữ niệm tên Ngài lại biện hộ cho rằng thêm hai chữ Nam mô là khách sáo và khó niệm, khó nhớ. Trên cơ sở của câu niệm này thì ta thấy các vị Bồ-Tát, các vị Sư tổ đã nói rõ hơn hai chữ Nam mô tức là Quy-mạng. Vậy sao có thể bỏ đi hai chữ Nam mô vô cùng quan trọng này để chỉ niệm bốn chữ tên của Ngài? Chẳng nhẽ người ta trí tuệ hạn đẳng đến mức không nhớ nổi hai chữ Nam mô? Và hai chữ này có giá trị vô cùng quan trọng đến mức đem thân mạng, tinh thấn , ý chí của người niệm Phật về với cha lành A-Di-Đà Phật lại là khách sáo sao?

 Niệm bốn chữ là tùy nơi bạn nhưng giải thích như vậy là không đúng với danh hiệu của Phật A-Di-Đà nên tôi thấy cần thiết để nói ra. Tu hành mà lại sợ vất vả, lại hạ tiện đến nỗi không giám quy mạng Phật thì khác nào như người nông dân muốn tròng lúa có thu hoạch lại vãi thóc giống vào không trung hay trên cát mà đòi có thóc vàng sau này thu hoạch?

 Thiết tưởng đến đây không phải tranh luận làm gì thêm nhiều nữa vì trong suốt Kinh này cả đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni và đức Quán-Thế-Âm, Đại-Thế-Chí, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát đều nhắc đi nhắc lại sáu chữ Hồng Danh: Nam mô A-Di-Đà Phật.

 Niệm bốn chữ A-Di-Đà Phật là chỉ gọi tên Ngài mà thôi, Vậy gọi nhiều chỉ làm cho Ngài sốt ruột mà thôi.

 Phật hỏi gọi tên Ta hoài để làm gì vậy? Sốt ruột quá! Hãy quy mạng với Ta đi nếu muốn Ta tiếp-dẫn về Cực-Lạc!

Qua đây chúng ta thấy, nếu chỉ niệm bốn chữ thì không thể thành tựu, chẳng thể thâm nhập vào y-báo và chánh-báo của Phật A-Di-Đà, không thể giúp hành giả có trí-tuệ, không thể giúp họ vào định, thực hành giới luật, xả bỏ những dục vọng thế-gian và có trí noi gương Phật v.v... Vì thế, không thể có cảm ứng đạo giao để Phật A-Di-Đà tiếp-dẫn về thế giới của Ngài.

Theo tôi, ai nói ta cũng kính, nhưng Ta "y-Kinh, không y- nhân" và khẳng định không ai bằng Phật vì Ngài ba nghiệp tuyệt đối Thanh-tịnh. Vì thế tốt hơn hết hãy lấy Kinh điển để đối chứng. Xin bạn hãy lấy Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật để nghiêm cứu và đối chiếu quán xét để nhận ra chân. 

Nếu trong những lời tâm sự hàn huyên về Phật pháp của tôi trên đây có gì không phải thì tôi xin thành tâm sám hối với tất cả tấm lòng cầu thị không mệt mỏi.

Chúc các bạn niệm Phật thành tựu Tam muội và cầu chúc mọi người chúng ta kẻ trước người sau khi lâm chung đều được vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, sinh trên sen báu trong sự thương yêu chăm sóc của Phật A-Di-Đà và các bậc Đại-Sỹ. 

              Nam mô A-Di-Đà Phật.

                                   

                     Hà lan, ngày 9 tháng 3 năm 2015.

                            Trân trọng:  Quảng Tịnh Cư-sỹ.

 

 

 

 

 

 

 

 

                      

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2012(Xem: 11728)
Cái gọi là Đường Lưỡi Bò Nghe thật lạ, không vô Cũng không phải dưới đất chui lên Cũng không phải trên trời rớt xuống...
28/07/2012(Xem: 12200)
Biển Đông dậy sóng Đang đe dọa Việt Nam cùng Đông Nam Á Đường Lưỡi Bò là lưỡi hái xâm lăng...
19/07/2012(Xem: 4731)
Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh con người và con vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy, là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có số người sống không bằng kiếp vật. Do vậy tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó [nước từ bi] tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).
15/07/2012(Xem: 5648)
Trong tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số đặc biệt 144 - 145, ra ngày 1-1-2012, có đăng bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn, một bài viết có nhiều điểm liên quan đến vấn đề phiên dịch kinh điển. Với vai trò của một nhà nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo trong nhiều năm, tác giả Đào Nguyên đã nhận thấy bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn có một số điểm cẩn phải trao đổi. Nhân đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Đào Nguyên đến quý bạn đọc.
10/07/2012(Xem: 4453)
Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ”trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật.
02/07/2012(Xem: 6067)
Cách đây khoảng 20 năm, phong trào học thiền Nhân Điện xuất hiện trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rồi một thời gian sau đó truyền về Việt Nam mà người khởi đầu là ông Lương Minh Đáng, một người Việt di cư đến Mỹ năm 1985. Những người theo học được ông hoặc các người phụ tá giảng dạy khai mở luân xa, rồi sau đó có thể tự chữa lành bệnh cho mình và cho tha nhân, kể cả các căn bệnh như ung thư và tim mạch và có khả năng chữa bệnh cho bệnh nhân ở xa qua việc truyền nhân điện bằng điện thoại.
14/05/2012(Xem: 9603)
Đa số tiểu bang của Hoa Kỳ, hôn nhân vẫn được định nghĩa theo hiến pháp qui định là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Tính cho đến tháng 5 năm 2012, chỉ có sáu tiểu bang (Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New York và New Hampshire), và thủ đô Washington DC, đã chấp thuận hôn nhân đồng tính (giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ).
12/04/2012(Xem: 4120)
Bài viết này không đưa ra một đề xuất nào, đối với bất kỳ cơ quan nào, mà chỉ thử dự đoán những gì sẽ xảy ra nếu hiện tượng Duy Tuệ vẫn tiếp tục diễn biến. Việc dự đoán như sẽ được trình bày dưới đây là không mấy khó khăn khi căn cứ trên những gì đã diễn ra, với giấy trắng mực đen, rành rành trên những trang của quyển sách có nhan đề ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiều lầm sau hàng ngàn năm” (sau đây gọi tắt là “Ta là ai?”).
22/03/2012(Xem: 4082)
Những bức hình giúp bạn nhận ra triết lý cuộc sống.
19/03/2012(Xem: 4544)
*Chánh Pháp thời kỳ: là sau Phật diệt độ, mới bắt đầu 500 năm Chánh pháp.( Theo luận Tỳ bà sa Q18. Vì độ cho Nữ giới xuất gia, nên Chánh Pháp bị giảm còn 500) Chánh pháp, có nghĩa là ‘Chứng Pháp’. Thời kỳ này có pháp, có người tu, và có người chứng được pháp đã tu. Có đủ Giáo Hạnh. Chánh pháp tồn tại 500 năm, hết 500 năm là qua thời tượng pháp. *Tượng Pháp thời kỳ: , là sau Chánh pháp, Tượng pháp tồn tại được 1000 năm. Tượng có nghĩa là ‘vẫn giống’ như Chánh pháp, có giáo, có hạnh,có pháp để tu, nhưng ít người chứng ngộ. Hết 1000 năm Tượng-pháp, là vào thời kỳ mạt pháp. *Mạt Pháp thời kỳ : Là thời khởi đầu chuyển thành ‘vi mạt’, Pháp mạt tồn tại Mười Ngàn Năm (10.000). Chỉ có Giáo mà không còn Hạnh! Tệ hơn, nhỏ bé hơn, thời kỳ của hao mòn, teo tóp, suy vi, chánh tà lẫn lộn. Ngày nay, Tuợng pháp hết đã lâu. Mạt Pháp cũng đã trôi qua 1051 năm rồi, nhưng còn kéo dài 8.949 năm nữa thì “Mạt Pháp” chấm dứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567