Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật bốn chữ hay sáu chữ

10/03/201505:59(Xem: 8743)
Niệm Phật bốn chữ hay sáu chữ

         Phat Di Da

    


Niệm Phật bốn chữ hay sáu chữ

Nam mô A-Di-Đà Phật.

  

Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.

 Phật dạy chúng ta không tranh cãi với hàng Thanh-Văn, và với lòng kính chung tôi không có một vẩn đục ý ganh đua tranh cãi mà chỉ muốn đem đến giá trị đích thực những lời chỉ dạy của Phật và các chư đại Bồ-Tát về pháp môn tu hành Niệm Phật mà thôi. Theo tôi, khi chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng Kinh Niệm Phật ba-La-Mật Kinh Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ  hay các Kinh điển xưa nay về pháp môn Tịnh-Độ Phật và chư Đại Bồ-Tát đều khuyên chúng ta Niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà là Sáu chữ hồng danh Nam mô A-Di-Đà Phật, không hề thấy có một lời nào, câu nào nói là niệm bốn chữ như có vài người đã nói ra và bào chữa về việc này.

  Hơn nữa, đứng về Lý thì tôi thấy như sau:

A-Di-Đà Phật, bốn chữ này chỉ là nói về tên của Phật mà thôi.

Còn danh hiệu Ngài bao giờ cũng gắn với bản nguyện của Ngài là mong muốn tiếp-dẫn chúng sinh về Tây phương Cực-Lạc nếu như họ một lòng trì nguyện danh hiệu của Ngài, một lòng tha thiết nguyện được vãng sinh về đó, sám hối, làm các công đức lành như lời nguyện thứ 18, 19, 20 trong bốn mười tám lời nguyện của Phật A-Di-Đà. Chúng ta hãy đi nghiên cứu lại thật kỹ mấy lời nguyện quan trọng này của Ngài:

 

Điều nguyện thứ mười tám: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu không được toại nguyện thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê chính pháp.

Điều nguyện thứ mười chín: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh mười phương phát tâm Bồ-Đề, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện, muốn sinh về cõi nước con, tới khi thọ chung mà con chẳng cùng đại chúng hiện ra chung quanh trước mặt người ấy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác.

Điều nguyện thứ hai mươi: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu của con, để lòng nhớ nghĩ đến nước con, tu trồng các công đức, dốc lòng hồi hướng, cầu sinh về cõi nước con mà không được vừa lòng thì con chẳng trụ ở ngôi Chính-Giác.

 

Vì thế, danh hiệu của Ngài gắn với hai chữ Nam mô tức là Quy-mạng, là trao thân mạng hay ngắn gọn là hai chữ Nam mô gắn với tên Ngài.

 Đừng vội tin lời tôi hay bất kỳ ai nói mà tôi mong rằng bạn hãy nghiên cứu sâu Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật và các Kinh điển khác của Phật để mà đối chiếu quán xét thực hư, chân, ngụy.

Nếu bạn nghiên cứu thật kỹ thì bạn sẽ thấy rõ Phật Thích-Ca Mâu-Ni và Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát đều không tách dời hai chữ Nam mô với bốn chữ A-Di-Đà Phật mà luôn nói trọn vẹn là Trì danh niệm Nam mô A-Di-Đà Phật và Danh hiệu của Phật A-Di-Đà liên tục được nói đi nói lại đều là Nam mô A-Di-Đà Phật, còn A-Di-Đà Phật chỉ là tên Ngài mà thôi.

 Phẩm thứ ba, Niệm Phật Công Đức trong Kinh này ngài Đại-Hạnh-Phổ-Hiền Bồ-Tát đã giải thích rất rõ về giá trị không thể thiếu của người niệm Phật về hai chữ Nam mô gắn chặt với tên của Ngài là: A-Di-Đà Phật và khuyên chúng ta phải niệm danh hiệu Ngài là sáu chữ Hồng danh Nam mô A-Di-Đà Phật trong khi thực hành pháp môn niệm Phật.

Trong các phần Nghi thức tụng niệm xưa nay của các vị Bồ-Tát, các vị Sư tổ đều có câu:

Phật A-Di-Đà Thân sắc vàng

Tướng tốt chói sáng không gì bằng

Lông mày trắng như năm Tu-Di

Mắt xanh trong giống bốn biển lớn

Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật

Ở phương Tây thế-giới an lành.

Con nay xin phát nguyện vãng sinh

Cúi xin đức từ-bi cứu độ.

 

Tôi đã phải in đậm câu Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật là vì có người khi thực hành bốn chữ niệm tên Ngài lại biện hộ cho rằng thêm hai chữ Nam mô là khách sáo và khó niệm, khó nhớ. Trên cơ sở của câu niệm này thì ta thấy các vị Bồ-Tát, các vị Sư tổ đã nói rõ hơn hai chữ Nam mô tức là Quy-mạng. Vậy sao có thể bỏ đi hai chữ Nam mô vô cùng quan trọng này để chỉ niệm bốn chữ tên của Ngài? Chẳng nhẽ người ta trí tuệ hạn đẳng đến mức không nhớ nổi hai chữ Nam mô? Và hai chữ này có giá trị vô cùng quan trọng đến mức đem thân mạng, tinh thấn , ý chí của người niệm Phật về với cha lành A-Di-Đà Phật lại là khách sáo sao?

 Niệm bốn chữ là tùy nơi bạn nhưng giải thích như vậy là không đúng với danh hiệu của Phật A-Di-Đà nên tôi thấy cần thiết để nói ra. Tu hành mà lại sợ vất vả, lại hạ tiện đến nỗi không giám quy mạng Phật thì khác nào như người nông dân muốn tròng lúa có thu hoạch lại vãi thóc giống vào không trung hay trên cát mà đòi có thóc vàng sau này thu hoạch?

 Thiết tưởng đến đây không phải tranh luận làm gì thêm nhiều nữa vì trong suốt Kinh này cả đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni và đức Quán-Thế-Âm, Đại-Thế-Chí, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát đều nhắc đi nhắc lại sáu chữ Hồng Danh: Nam mô A-Di-Đà Phật.

 Niệm bốn chữ A-Di-Đà Phật là chỉ gọi tên Ngài mà thôi, Vậy gọi nhiều chỉ làm cho Ngài sốt ruột mà thôi.

 Phật hỏi gọi tên Ta hoài để làm gì vậy? Sốt ruột quá! Hãy quy mạng với Ta đi nếu muốn Ta tiếp-dẫn về Cực-Lạc!

Qua đây chúng ta thấy, nếu chỉ niệm bốn chữ thì không thể thành tựu, chẳng thể thâm nhập vào y-báo và chánh-báo của Phật A-Di-Đà, không thể giúp hành giả có trí-tuệ, không thể giúp họ vào định, thực hành giới luật, xả bỏ những dục vọng thế-gian và có trí noi gương Phật v.v... Vì thế, không thể có cảm ứng đạo giao để Phật A-Di-Đà tiếp-dẫn về thế giới của Ngài.

Theo tôi, ai nói ta cũng kính, nhưng Ta "y-Kinh, không y- nhân" và khẳng định không ai bằng Phật vì Ngài ba nghiệp tuyệt đối Thanh-tịnh. Vì thế tốt hơn hết hãy lấy Kinh điển để đối chứng. Xin bạn hãy lấy Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật để nghiêm cứu và đối chiếu quán xét để nhận ra chân. 

Nếu trong những lời tâm sự hàn huyên về Phật pháp của tôi trên đây có gì không phải thì tôi xin thành tâm sám hối với tất cả tấm lòng cầu thị không mệt mỏi.

Chúc các bạn niệm Phật thành tựu Tam muội và cầu chúc mọi người chúng ta kẻ trước người sau khi lâm chung đều được vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, sinh trên sen báu trong sự thương yêu chăm sóc của Phật A-Di-Đà và các bậc Đại-Sỹ. 

              Nam mô A-Di-Đà Phật.

                                   

                     Hà lan, ngày 9 tháng 3 năm 2015.

                            Trân trọng:  Quảng Tịnh Cư-sỹ.

 

 

 

 

 

 

 

 

                      

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2024(Xem: 120)
Đức Phật là Đại Y Vương, bậc tuệ tri mọi pháp, Thầy của trời người. Sau khi giác ngộ, trở thành bậc Chánh Đẳng Giác. Ngài đi khắp nơi thuyết pháp độ sinh, kết quả là độ thoát vô số chúng hữu tình, đặc biệt để lại cho đời một kho tàng Chánh Pháp mà theo đó tùy theo căn cơ, sở trường của hành giả ứng dụng để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Những gì Ngài thuyết là từ tự thân thực chứng của Ngài (chứ không nghe từ ai cả), có nghĩa có văn từ sơ thiện, trung thiện cho đến hậu thiện, thiết thực trong hiện tại, có khả năng hướng thượng, nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, đến để mà thấy, được người trí tự mình giác hiểu.
15/10/2024(Xem: 318)
Đây là câu hỏi hay, cũng là vấn đề khó biện giải bằng thức tri và tưởng tri của một người học Phật, ngoài trừ Bậc Tuệ Tri Mọi Pháp, Bậc Toàn Thiện, Toàn Giác, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điệu Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn mới có thể làm cho vấn đề sáng tỏ, làm cho khai thị, làm cho khai ngộ, làm cho minh hiển "như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc... "
06/10/2024(Xem: 414)
Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa. Pháp sư Huệ Viễn được coi là Tổ đầu tiên của Tịnh tông Trung Hoa; thành lập Bạch Liên Xã quy tụ được hơn ba ngàn cả tăng lẫn tục toàn các bậc hào kiệt trong đời, trong đó có 18 vị là bậc thượng thủ, để lại cho hậu thế đời sau vô số câu chuyện vãng sinh ly kỳ. Đây là tông phái siêu việt, với nhiều đặc thù thuộc Đại thừa viên đốn. Gọi Đại thừa bởi tông này lấy tâm Bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Viên, bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu cả Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung giáo và Đại thừa đốn giáo. Đốn, vì tông này không luận bàn về pháp tướng mà chỉ chuyên về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển. Đây chính là những điểm siêu xuất, đặc thù của tông Tịnh Độ.
20/09/2024(Xem: 920)
Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.
30/08/2024(Xem: 364)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 554)
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
28/08/2024(Xem: 1198)
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời
28/06/2024(Xem: 1611)
Bố thí và cúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát. Suốt cuộc đời Đức Phật, ngài đã sống bằng phẩm vật cúng dường. Tương tự, sự phát triển của Phật giáo lan rộng khắp thế giới và được hộ trì cho tới giờ cũng là nhờ phẩm vật cúng dường của đàn na thí chủ. Do vậy, bài này được viết để mời nhau giữ hạnh bố thí và cúng dường.
06/05/2024(Xem: 739)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ. So với hai kinh kia thì kinh A Di Đà ngắn, ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung không quá thâm sâu hay mật nghĩa như những kinh Đại Thừa khác. Phật tử bắc tông phần nhiều ai cũng đọc tụng và khá nhiều người thuộc nằm lòng.
16/04/2024(Xem: 914)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com