Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Không thể làm ngơ trước con số thống kê: Tín đồ Phật giáo Việt Nam chỉ còn 6.802.318 người!

06/11/201203:51(Xem: 4702)
Không thể làm ngơ trước con số thống kê: Tín đồ Phật giáo Việt Nam chỉ còn 6.802.318 người!

tindophatgiaovnam_1Điều làm nhiều người giật mình là số liệu người theo đạo Phật tại Việt Nam từ cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, do Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số công bố vào năm 2010 đã cho thấy số lượng tín đồ Phật giáo Việt Nam giảm đến mức chưa từng thấy: 6.802.318 người, chiếm 7,92% dân số!

Quan tâm, nghiên cứu, tự thực hiện và sử dụng các số liệu thống kê liên hệ đến tôn giáo là một yêu cầu của hoạt động tôn giáo hiện đại. Rất tiếc, Phật giáo chúng ta đã chưa làm được điều này như các tôn giáo khác. Điều đó chắc chắn có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động hoằng pháp cũng như các hoạt động Phật sự khác của Phật giáo.

phattuvn-01
Số liệu thống kê đáng quan ngại trên liệu có chính xác, khi nhìn chung sinh hoạt Phật giáo
khởi sắc từ Bắc vào Nam những năm gần đây?

Nhưng sẽ càng đáng tiếc hơn nữa nếu bỏ qua những số liệu mà các cơ quan có thẩm quyền về thống kê, điều tra xã hội học thực hiện. Chúng tôi muốn nói đến số liệu tín đồ Phật giáo do Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số thực hiện trong cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 được nhiều tài liệu nghiên cứu mới dẫn lại. Điều rất tiếc là số liệu của cuộc tổng điều tra này không được giới Phật giáo quan tâm. Các cây bút Phật giáo hầu như đều sử dụng các nguồn số liệu tín đồ Phật giáo khác đã cũ, không có tính cách chính thức. Trong rất nhiều số liệu về tín đồ Phật giáo tại Việt Nam, con số thấp nhất chỉ dừng lại ở mức khoảng 10 triệu người.

Thế nhưng, điều giật mình là số liệu người theo đạo Phật tại Việt Nam từ cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, do Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số công bố vào năm 2010 đã cho thấy số lượng tín đồ Phật giáo Việt Nam giảm đến mức chưa từng thấy: 6.802.318 người, chiếm 7,92% dân số. Như vậy là giảm đến 1/3 so với con số thấp nhất trước đây, vào khoảng 10 triệu.

Số liệu thống kê đáng quan ngại trên liệu có chính xác, khi nhìn chung sinh hoạt Phật giáo khởi sắc từ Bắc vào Nam những năm gần đây? Chắc chắn sẽ có nghi vấn như thế nêu ra. Thế nhưng, chúng ta còn có cuộc điều tra dân số nào khác để căn cứ vào đó? Tầm vóc, vai trò, quy mô của cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 là một thực tế khách quan. Không lẽ gì Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số thiếu công bằng khi điều tra số liệu tín đồ Phật giáo? Hiện nay, năm 2009, bối cảnh tự do tôn giáo đâu có thể làm người dân kê khai thiếu trung thực về tôn giáo của mình như những năm 1979, 1989. Số liệu do Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số về số lượng tín đồ các tôn giáo khác không sai biệt lớn so với số liệu do chính các tôn giáo đó thống kê và công bố.

Nếu có một sai số nào đó, thì chỉ có thể trong khoảng vài triệu người: 10 - 20%. Nếu có thêm vào số liệu đã có ước đoán như thế để vớt vát, thì con số cuối cùng vẫn cho thấy tín đồ Phật giáo Việt Nam đã giảm và đang trong tiến trình giảm. Đó là một kết luận mà chúng ta phải chấp nhận.

Phật giáo chúng ta phải đối mặt với vấn đề để tìm cách và có cách mà giải quyết. Nếu cứ bằng lòng, an tâm với con số 50%, 60%, 70%... người Việt Nam theo đạo Phật, thì đến cuộc tổng điều tra dân số sau, số liệu thực tế sẽ thấp hơn nữa, cay đắng hơn nữa, đau lòng hơn nữa.

Đạo Phật là đạo của sự thật, của chân chánh. Người con Phật không thể bỏ qua sự thật, ngoảnh mặt, bưng tay trước sự thật.

Sự thật là Phật giáo Việt Nam đang giảm sút tín đồ và mức giảm sút đã đến mức chưa từng thấy. Phật giáo Việt Nam đang đi vào một khúc quanh quan trọng. Đó là giai đoạn Phật giáo mất vị trí tôn giáo đa số tại Việt Nam. Số lượng tín đồ đã xấp xỉ mức Cơ Đốc giáo (hay Ki-tô giáo, một khái niệm gộp chung những giáo phái Thiên Chúa giáo). Nếu không có giải pháp tích cực, xu hướng giảm thiểu tiếp tục diễn tiến, thì trong lần tổng điều tra dân số sau, kết cục không thể tránh khỏi là Phật giáo trở thành tôn giáo thiểu số tại Việt Nam.

Như vậy, nói Tăng Ni Phật tử Việt Nam đang ở một khúc quanh lịch sử và chịu trách nhiệm nặng nề về vai trò, vị trí của Phật giáo Việt Nam mai hậu là việc không hề cường điệu một chút nào. Đây là những thời khắc quyết định. Có giữ được vị trí Phật giáo như là tôn giáo lớn nhất của dân tộc như truyền thống gần 2.000 năm qua hay không, hoặc chấp nhận Phật giáo trở thành tôn giáo thiểu số ở đất nước mình, tất cả tùy thuộc vào Tăng Ni, Phật tử Việt Nam hôm nay.

phattuvn-02
Người Phật tử cần tự hào và ý thức khi đặt bút khai vào lý lịch của mình

Dù gì đi nữa, thì tu sĩ và tín đồ của một tôn giáo lại có thể khoanh tay làm ngơ trước tình trạng thiểu số hóa của tôn giáo mình. Điều đó là không thể chấp nhận đối với mọi tôn giáo, huống nữa là Phật giáo, tôn giáo đòi hỏi người hành trì song song với “tự giác” phải có trách nhiệm vụ “giác tha” thì mới có thể đạt được cứu cánh.

Giác tha là hóa độ mọi người nhận thức và thực hành theo con đường thiện lành mà Đức Phật đã hướng dẫn. Hiện trạng như đã dẫn ra với số liệu dẫn trên cũng gián tiếp nói rằng, nhìn chung, hiện trạng hành đạo, tu tập của Phật tử tại Việt Nam có vấn đề, dẫn tới việc giảm thiểu đối tượng “giác tha”. Không lẽ gì khi đã được giác ngộ đạo Phật mà người ta lại khước từ việc nhìn nhận mình theo đạo Phật.

Do đó, trong hoàn cảnh hiện nay, vẫn nghĩ rằng 80%, 70% người Việt Nam theo đạo Phật là không thể phù hợp. Chúng ta không thể nói người ta theo đạo Phật trong khi người ta đặt bút viết rằng “không”!

Chúng tôi nghĩ đây là giờ phút Tăng Ni, Phật tử Việt Nam phải bừng tỉnh. Chúng ta vẫn còn một ít khả năng để xoay chuyển tình hình, bảo tồn vị trí mà tổ tiên đã truyền lại qua hàng ngàn năm lịch sử. Ngồi yên, buông xuôi, bỏ mặc là chúng ta không có trách nhiệm với cha ông và các thế hệ sau. Để rồi khi con số điều tra dân số mới phũ phàng hiện ra thì thời khắc quyết định đã qua, tình trạng sẽ là bi đát hơn nhiều.

Liệt vị tôn đức tiền bối hữu công đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp chấn hưng Phật giáo mấy mươi năm trước, liệu các ngài thế nào khi biết rằng, chưa đến nửa thế kỷ sau đó, số liệu tín đồ Phật giáo kê khai trong một cuộc điều tra quốc gia chỉ còn là khoảng trên 6 triệu người trên tổng số người Việt hơn 85 triệu người.

Con số là một lẽ, nhưng điều quan trọng hơn là việc trả lời câu hỏi, diễn tiến số lượng tín đồ Phật giáo Việt Nam là tăng hay giảm. Người ta đã kê khai chính thức rành rành như thế thì hôm nay, chúng ta cáo bạch như thế nào với anh linh liệt vị tiền bối Phật giáo Việt Nam.

Thời gian không chờ đợi chúng ta. Vấn đề hết sức cấp bách khi chúng ta đang xác định ở một khúc quanh lịch sử. Mười năm trước vẫn còn có nhiều người không chấp nhận con số 10 triệu tín đồ Phật giáo, thì 10 năm sau con số đó đã chỉ còn hơn 6 triệu. Thế thì, 10 năm sau nữa thì sao?

Không lẽ người Phật tử hôm nay sẽ là những người chứng kiến việc xác định nước Việt Nam có tôn giáo đa số đã là một tôn giáo khác không phải Phật giáo?

Đạo Phật là một tôn giáo không cạnh tranh. Nhưng đạo Phật cũng là một tôn giáo kêu gọi người tu hành trong đạo phải “giác tha”. Thịnh suy của đạo Phật tuy biết rằng “như hạt sương trên đầu ngọn cỏ”, “không nên sợ hãi” (ý thơ của Thiền sư Vạn Hạnh), nhưng chúng ta còn có trách nhiệm. Chúng ta không lo sợ trước nghiệp vận, nhưng đối với đạo Phật, chúng ta vẫn là người chủ nghiệp vận. Trong khúc quanh thịnh suy này của Phật giáo, trách nhiệm của Tăng Ni, Phật tử, những người còn chính thức kê khai mình theo đạo Phật, là hết sức nặng nề.

Con cháu mai hậu sẽ nhìn vào chúng ta trong thời điểm hiện nay, đúng vào lúc những con số đáng quan tâm, chưa từng có được ghi nhận. Cha anh chúng ta đã làm gì để còn có một nước Việt Nam có số đông người theo đạo Phật, hay ngậm ngùi sửa lại mục tôn giáo trong các quyển sách giáo khoa địa lý, từ điển bách khoa, Atlas… như đã phải làm đối với Hàn Quốc.

Đây là việc lớn, không thể xem thường một số liệu thống kê từ một cuộc điều tra quốc gia như vậy. Rất mong Giáo hội, quý Tăng Ni, Phật tử cùng nhau lưu ý với ghi nhận quan tâm xem đó là vấn đề mà tích cực tìm hướng giải quyết. Hoằng pháp nên được coi là ưu tiên hàng đầu trong bối cảnh như thế.

Minh Thạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2015(Xem: 7223)
Trong một thập niên qua, trong hàng chục bài pháp thoại cho Tăng Ni và Phật tử đăng trên trang nhà Chùa Giác Ngộ[1] và trang nhà Youtube[2], tôi thường khẳng định rằng khái niệm “84,000 pháp môn” là do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, chứ trên thực tế, đức Phật chỉ truyền bá con đường duy nhất là Tứ thánh đế, mà cốt lõi là nhận diện khổ đau, truy tìm nguyên nhân của nỗi khổ, niềm đau và thực tập bát chính đạo để đạt được niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
24/02/2015(Xem: 18077)
Lúc tôi viết những dòng về cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Thư, thì bom đạn đang tiếp tục nổ trên một phần của trái đất, nhân mạng con người bị xem như cỏ rác. Hệ lụy nầy phải chăng có nguồn gốc từ các tôn giáo độc thần còn sót lại? Nhân loại ít có những ngày vui; phần lớn là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mà nhiều trường hợp y học tân tiến cũng đành chịu bó tay.
22/02/2015(Xem: 6141)
Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến quyết định của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Do vậy, việc trao đổi dưới đây chỉ là quan điểm cá nhân của riêng tôi. Trước hết, theo tôi, chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giá trị và giới hạn của các pháp môn được Phật giáo Việt Nam tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Khi đánh giá bằng các thống kê xã hội học cụ thể, ta sẽ rút ra được những kết luận nhất định. Vào năm 1945, dân số của nước Việt Nam khoảng 25 triệu người, trong đó Phật tử chiếm 80%. Đến năm 2013 chúng ta có trên dưới 90 triệu dân và số lượng Phật tử chỉ còn lại 38%. Đó là dữ liệu giúp ta đánh giá cách thức làm đạo của Phật giáo. Chúng ta phải thừa nhận rằng không phải cái gì của Phật giáo Trung Quốc truyền bá đều đúng và cần được tôn thờ như chân lý. Thước đo bằng thống kê trên sẽ giúp ta tránh được những quan điểm trái ngược: theo hay không theo, chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
16/02/2015(Xem: 10460)
Bài học cho Việt Nam Những thái độ vô tâm, hờ hợt trước tình hình đất nước của chúng ta sẽ góp phần biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ 2, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh đang hướng về Việt Nam, chuyện này rồi sẽ xảy ra nếu mọi người vẫn chưa kịp thức tỉnh!
10/02/2015(Xem: 7906)
1) Khuynh hướng 1 xuất phát từ Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà Nho nắm vai trò lãnh đạo chính trị của Đại lục muốn dành cái quyền ngự trị quan điểm tư tưởng triết học tôn giáo của họ trên bề mặt nhận thức văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân họ. Chủ trương họ đưa ra là Tam Giáo Đồng Nguyên. 2) Khuynh hướng 2 cho rằng tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” và đạo Phật cũng là một trong các tôn giáo như thế. Từ đó, với mục đích “Dĩ hòa vi quý” trong quá trình làm đạo chúng ta dễ dàng bị rơi vào các cái bẫy đó và cố đánh đồng bằng cách hạ thấp đạo Phật xuống để đẳng thức hóa với các tôn giáo vốn khác với đạo Phật.
30/01/2015(Xem: 6383)
"Việc chém con lợn đang sống khỏe mạnh là lối đối xử tàn ác, nó làm trơ lì cảm xúc của người xem, đặc biệt là trẻ em", ông Nguyễn Tam Thanh, cán bộ Phúc lợi Động vật, Tổ chức Động vật châu Á, trao đổi với VnExpress ngày 29/1.
30/01/2015(Xem: 22581)
“Việt Nam Thi Sử Hùng Ca” được tôi (TNT Mặc Giang) sáng tác vào tháng 9 năm 2003. Từ năm 2003-2005, tác phẩm này do tôi tự in ấn nhiều lần bằng hình thức Photocopy, biếu tặng những người quen biết và người thân tại Việt Nam và tại Úc. Tôi dự tính xuất bản chính thức quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, nên đã nhờ SG. Phạm Trần Quốc Việt viết Lời giới thiệu từ năm 2005. Vì những trục trặc ngoài ý muốn, nhất là gặp khó khăn về tài chính, tôi đã chưa thể xuất bản chính thức. Ông Phạm Trần Quốc Việt nay vẫn còn khỏe mạnh. Lời giới thiệu của ông tôi vẫn tôn trọng giữ nguyên trong ấn bản internet tại trang nhà Hương Đạo.[1] Thực ra, từ mười năm qua, trang nhà Lương Sơn Bạc online[2] tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của tôi, đúng với nguyên văn của tôi sáng tác.
22/01/2015(Xem: 11200)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
20/01/2015(Xem: 5917)
Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân. Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b) Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi sâu vào việc phân tích.
15/01/2015(Xem: 5319)
Vụ nhật báo Người Việt kiện tuần báo Saigon Nhỏ về mạ lỵ phỉ báng được khởi sự từ tháng 9 năm 2012, nhưng đến tháng 12 năm 2014 mới được đưa ra xét xử. Sau một phiên tòa kéo dài bốn tuần, ngày 30.12.2014, tòa tuyên phạt bà Hoàng Được Thảo và tuần báo Saigon Nhỏ 4.500.000 USD. Các cộng đồng người Việt hải ngoại trên thế giới đều xôn xao. Nhiều người đã điện thoại hay gởi email cho chúng tôi và hỏi: Tại sao ra nông nỗi này? Báo Saigon Nhỏ là báo chống cộng mà? Có gì bí ẩn đàng sau?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]