Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phỉ báng trên mạng

04/11/201415:27(Xem: 6850)
Phỉ báng trên mạng

Phi Bang Tren Mang

Tuần trước, Tòa Thượng Thẩm New South Wales ban hành phán quyết ra lệnh phạt bị đơn bồi thường $80,000 cùng với phí tôn pháp lý vì đã viết và phổ biến bài trên trang mạng và qua email có tính mạ lỵ và phỉ báng.

Trong vụ kiện Graham v Powell (No 4) [2014], nguyên đơn là một thương gia và cũng là nghị viên Hội Đồng Thành Phố Palerang. Bị đơn từ hành nghề luật sư và làm chủ một tiệm sách. Nguyên đơn khai rằng ông không hề quen biết với bị đơn. Nhưng ông biết là trong năm 2012 thì có một vu kiện giữa Hội Đồng Thành Phố Pelarang và vợ của bị đơn dẫn đến kết quả là vợ của bị đơn bị phán phạm tội khinh mạn tòa án. Phán quyết này được tòa ban hành trong tháng 7 năm 2012. Tới tháng 12 năm 2012 thì bị đơn mở một trang mạng cá nhân và tố cáo ban giám đốc quản lý cùng với các nghị viên Hội Đồng Thành Phố Palerang có hành vi tham nhũng và dựng ra bằng chứng sai lạc trong phiên tòa xử giữa Hội Đồng Thành Phố và vợ của bị đơn.

Trong suốt tháng 12 năm 2012, bị đơn gửi hàng loạt điện thư đi cho nhiều người tố cáo nguyên đơn tham nhũng và hành xử gian lận cũng như kêu gọi họ vào xem trang mạng của bị đơn có chứa nhiều tình tiết quan trọng. Nguyên đơn gửi điện thư yêu cầu bị đơn tháo xuống những bài viết có tính mạ lỵ và chính thức lên tiếng xin lỗi. Bị đơn không chịu tháo và cũng không xin lỗi.

Theo lời khai của nguyên đơn thì sau khi bị đơn phổ biết hàng loạt điện thư và bài viết trên trang mạng cá nhân có tính mạ lỵ thì có một số người xa lánh nguyên đơn. Điều này ảnh hưởng nguy hại đến đời sống và việc làm của nguyên đơn. Tài liệu phỉ bang trên internet thì khó mà có thể xóa được.

Sau khi nguyên đơn khởi tố thì bị đơn còn trả đủa bằng cách gửi thư khiếu nại đến cảnh sát, Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng và nhiều cơ quan truyền thông khác. Giới chức trách trả lời là bị đơn không cung cấp manh mối gì để họ có thể tiến hành điều tra mà chỉ toàn là những cáo buộc vô căn cứ.

Tới phiên xử tại Tòa Thượng Thẩm thì bị đơn không ra hầu tòa. Tòa quyết định là bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn số tiền $80,000 vì những bài viết đăng trên mạng và gửi qua điện thư rộng rãi đến nhiều nơi. Ngoài ra, tòa cũng ban hành án lệnh cấm bị đơn vĩnh viễn không được phổ biến bất cứ tài liệu hoặc bài viết mạ lỵ trên mạng hoặc qua bất cứ hình thức nào khác. Dĩ nhiên, tòa cũng bắt bị đơn hoàn trả phí tổn pháp lý vụ kiện cho nguyên đơn.

Vụ kiện này là một bài học cho những người tự viết và phổ biến bài trên mạng dưới hình thức trang mạng cá nhân (blogs) hoặc gửi điện thư đến nhiều người.

Trong một vụ kiện khác vào cuối năm ngoái, Tòa Án Khu Vực NSW đã ra lệnh cho một bị đơn sử dụng tweeter để phỉ báng phải bồi thường cho nguyên đơn $105,000. Trong vụ kiện Mickle v Farley [2013], bị đơn là một thanh niên trẻ mới học xong trung học Orange High School. Bố của bị đơn từng là thầy giáo dạy nhạc tại trường này cho tới năm 2008 khi ông rời nhà trường vì những lý do riêng. Sau đó, nguyên đơn được bổ nhiệm thay vào vị trí của ông.

Bị đơn cho rằng lý do bố ông phải rời nhà trường có liên quan tới nguyên đơn. Nhưng sự thật thì không phải như vậy. Bị đơn phổ biến một số cáo buộc vô căn cứ và có tính mạ lỵ đối với nguyên đơn. Do đó nên nguyên đơn tiến kiện và được tòa phán cho số tiền bồi thường.

Một lần nữa, đây là bài học cho những người phát biểu không thận trọng khi sử dụng truyền thông xã hội như tweeter và facebook. 

Cũng liên quan tới việc phỉ báng trên mạng thì trong năm 2012, Tòa Thượng Thẩm Victoria đã bắt Google bồi thường cho Milorad Trkulja $200,000. Ông Trkulja là một người di dân và đã sống tại Úc trên 40 năm. Ông chuyên tổ chức các chương trình văn nghệ tại Melbourne và chưa bao giờ dính líu tới các tội phạm băng đảng. Vào năm 2004, ông bị một nhóm băng đảng xã hội đen bắn nhầm trong lúc đang ăn tối tại một nhà hàng ở Melbourne.

Tới năm 2009, ông yêu cầu Google tháo gỡ nội dung tìm kiếm gắn liền tên ông với Tony Mokbel là một tay trùm xã hội đen. Ông nói là ông bị nhiều người xa lánh mặc dù ông là một nạn nhân vô tội bị bắn giữa hai làn đạn của các băng đảng.

Nguyên đơn than phiền là khi có người đánh tên ông vào Google search, hình của ông xuất hiện cùng với hình của các tay anh chị và những bài báo có tựa đề liên quan tới bang đảng tội phạm Melbourne. Luật Sư của ông viết thư yêu cầu Google tháo gỡ những cái links này. Google từ chối và trả lời rằng họ không phải là nhà xuất bản mà chỉ áp dụng chương trình vi tính (computer software) để giúp mọi người tìm kiếm dữ liệu nhanh chóng và dễ dàng. Google cũng nói thêm là nếu cảm thấy những bài viết đó có tính mạ lỵ thì ông nên tiến hành kiện công ty chủ quản của những trang mạng đăng tải các tài liệu đó.

Google lập luận rằng kết quả hiện lên trên trang mạng khi tên của nguyên đơn được đánh vào là do máy móc tự động chớ không phải ý của Google. Google hoàn toàn thụ động chớ không chủ động phổ biến tài liệu có tính mạ lỵ.  Nhưng Tòa Thượng Thẩm Victoria đã không chấp nhận lập luận này và phán rằng đằng sau software là con người. Luật pháp không đòi hỏi tính chủ động hay thụ động, miễn là Google có ý phổ biến tài liệu đó cho dù kết quả là do software tự động sắp xếp. Software là do nhân viên của Google viết ra. Vì vậy, Google là nhà xuất bản và phổ biến tài liệu có tính mạ lỵ khi chế biến software nối kết tên tuổi và hình ảnh của nguyên đơn với đám anh chị xã hội đen tại Melbourne.

Một luận cứ biện hộ khác mà Google sử dụng là họ chỉ phổ biến một cách vô tình và chỉ đóng vai trò trung gian như một thư viện. Dưới Đạo Luật Phỉ Báng Victoria, bị đơn có thể biện bạch là mình chỉ đóng vai trò phân phối, không biết và không có cách nào biết được tài liệu có tính mạ lỵ hay không. Nhưng luận cứ biện hộ này hoàn toàn thất bại vì luật sư của nguyên đơn đã gửi thư yêu cầu Google tháo gỡ những cái links có tính phỉ báng mà Google từ chối. Do đó, Google không thể nào lập luận là mình không biết các tài liệu đó có tính phỉ báng. Kết cuộc, tòa phán Google phải bồi thường cho ông Trkulja $200,000. Trước đó thì ông Trkulja cũng đã thắng kiện vói Yahoo với số tiền bồi thường là $225,000.

Trong thời gian vừa qua, sinh hoạt cộng đồng người Việt tại phải ngoại phải đối đầu với một vấn nạn là có một thiểu số cá nhân gửi hoặc chuyển qua điện thư lên các diễn đàn điện thư toàn cầu một số bài viết có tính mạ lỵ và phỉ báng đối với một số người. Qua những vụ kiện nêu trên thì có thể đúc kết được một vài kết luận. Thứ nhầt, luật phỉ báng áp dụng cho mọi hình thức phổ biến tài liệu hoặc bài viết có tính mạ lỵ dù là đăng trên trang mạng, cá nhân, gửi điện thư, hoặc qua các hình thức truyền thông xã hội như facebook hoặc tweeter. Nạn nhân của các cuộc phỉ báng, mạ lỵ có thể nhờ đến luật pháp nếu cần thiết. Ngoài ra, chính các công ty chuyển tải những bài viết hoặc tài liệu phỉ báng có lúc cũng phải chịu trách nhiệm trước luật pháp nếu như không chịu tháo gỡ những tài liệu hoặc bài viết có tính mạ lỵ sau khi nhận được lời yêu cầu của nạn nhân.

Những thành viên có tích cực tham gia sinh hoạt cộng đồng cũng nên thận trọng. Nếu tránh được việc sử dụng các diễn đàn thì tốt. Bằng không thì phải lưu ý rất kỹ trước khi chuyển tải những bài viết có tính mạ lỵ vì chuyển tải không phải là một luận cứ biện hộ được tòa chấp nhận trong luật phỉ báng.


http://vietluan.com.au/thong-tin-phi-bang-tren-mang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/12/2010(Xem: 3521)
Khi thấy những không gian ngập tràn sách trong ngày hội sách đang diễn ra ở nhiều thành phố lớn, lòng tôi rộn lên một niềm vui khó tả. Tôi bỗng nhớ về những ngày chật vật gom từng cuốn sách từ nước ngoài về Việt Nam, thời chúng ta còn hiếm sách.
27/12/2010(Xem: 3714)
Người dịch: Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đống góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó. Nội dung cuốn sách tập trung thảo luận về đạo đức học Phật giáo và liên hệ nó với những vấn đề đạo đức hiện đại như phá thai, hạn chế sinh sản, nghiên cứu phôi thai, trợ tử, việc kéo dài trạng thái sống thực vật.v.v… Cuốn sách cũng bàn đến vấn đề khi nào thì đời sống một con người được xem chính thức bắt đầu, và khi nào cái chết được coi chính thức xảy ra.
24/12/2010(Xem: 4526)
Phật giáo Việt-Nam trải qua nhiều bước thăng trầm. Đời Lý, Trần Phật giáo cực thịnh, là quốc đạo. Triều Lê Phật giáo bắt đầu suy vi. Đến triều Nguyễn Phật giáo sa sút, mất hẳn vị trí trong chính trị văn hóa và xã hội ở Việt-Nam.
19/12/2010(Xem: 4447)
Gần đây có người nói rằng Phật Giáo Đại Thừa là Bà La Môn Giáo, là tà ma ngoại đạo. Thật ra lời nói này không có gì mới lạ, nó đã có từ thời xưa, khi Phật Giáo đang ở trong thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, nhằm tránh sự hoang mang cho những người mới bước chân vào đạo Phật và cho những Phật tử không có nhiều thì giờ nghiên cứu về sự khác biệt giữa hai tôn giáo nên chúng tôi viết bài dưới đây. Chúng tôi không có ý so sánh hai tôn giáo lớn của nhân loại, vì việc làm này là của các nhà học gỉa, mà chúng tôi chỉ đưa ra vài điểm khác biệt quan yếu có tính cách nền tảng giữa đạo Phật nói chung, Phật Giáo Đại Thừa nói riêng so với Bà La Môn Giáo.
18/12/2010(Xem: 14819)
Nhận Xét Của Thượng Tọa Thích Đức Thắng Về Quyển Sách: Đường Về Xứ Phật Thích Thông Lạc
08/12/2010(Xem: 4918)
“Tăng ly chúng tăng tàn”, còn chúng tại gia ly chúng xuất gia thì ra sao? Thế nào là “cư sĩ ly tăng”? Đâu là nguyên nhân và đâu là cách giải quyết vấn đề? “Tăng ly chúng” là một vấn đề đã được bàn luận nhiều.
24/11/2010(Xem: 10050)
Mấy ngày qua, cả nước oằn mình trước sự tàn phá đầy tang thương của cơn bão Ketsana. Cũng thời điểm đó “cơn bão” bất khoan dung của chính quyền tỉnh Lâm Đồng kéo đến tu viện Bát Nhã, gây nên tình cảnh bất an cho khoảng 400 Tăng Ni tu theo pháp môn Làng Mai. Hai cơn bão đến cùng một lúc khiến cho lòng người Phật tử Việt Nam thêm quặn thắt.
23/10/2010(Xem: 3621)
"Chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo".
16/10/2010(Xem: 3814)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
16/10/2010(Xem: 4266)
"Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, vì hình thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, vì sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567