Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Chống Ai, Chống Gì?

30/05/201320:36(Xem: 5764)
Phật Giáo Chống Ai, Chống Gì?


labode_1PHẬT GIÁO CHỐNG AI, CHỐNG GÌ?
Cao Huy Thuần

Mở đầu cuộc đấu tranh, Phật giáo ra một tuyên ngôn, đọc tại chùa Từ Đàm, Huế, ngày 10-5-1963, trong đó đoạn cuối nói về phương pháp tranh đấu như sau:

"Phương pháp ấy là "bất bạo động". Chúng tôi ý thức đang ở trong hoàn cảnh mà chính trị và quân sự cực kỳ phức tạp. Chúng tôi, hơn thế nữa, phải thể hiện tư tưởng của Phật giáo ngay trong công cuộc tranh đấu của chúng tôi. Vì những lý do đó, chúng tôi chấp nhận một sự hy sinh đến cùng độ và lấy sự hy sinh ấy làm sức mạnh để rung chuyển tận lòng người chứ không phải chỉ rung chuyển chính sách mà thôi. Ngay từ bây giờ, chúng tôi có thể tuyên bố minh bạch rằng những người tăng sĩ của Phật giáo là những người sẵn sàng noi gương Gandhi - vị thánh của sức mạnh bất bạo động".
Hai điểm được nêu rõ trong đoạn tuyên ngôn: một là đường lối bất bạo động, hai là "thể hiện tư tưởng của Phật giáo". Hai điểm thật ra là một, bởi vì tư tưởng của Phật giáo là bất bạo động. Mà bất bạo động trong Phật giáo là sức mạnh "làm rung chuyển tận lòng người".

Ngay từ đầu, Phật giáo đã xác quyết: hành động không được rời khỏi tư tưởng. Bởi vậy, tuy có thể là thừa đối với những người Phật tử thuộc kinh, tôi phải nhắc lại ở đây quyển kinh mà họ sùng kính vào bậc nhất, kinh Pháp Hoa, trong đó tôi trích câu chuyện về một vị tăng kỳ quái. Ông tăng này kỳ quái thật, vì ông chẳng hề đọc tụng kinh điển gì, nhưng gặp ai cũng chắp tay kính cẩn lễ bái và nói: "Tôi không dám khinh người, vì người sẽ được làm Phật". Nhiều người cho ông này là khùng, có khi nổi giận mắng nhiếc, có khi ném đá quất roi đuổi đi.

Mặc cho mắng nhiếc đuổi đánh, ông tăng vẫn cứ câu ấy chắp tay lễ bái, đến chết vẫn không đổi. Ấy vậy mà Phật tán dương, xem ông như một vị Bồ tát, trong kinh gọi là bồ tát Thường Bất Khinh. Chuyện này trong kinh Pháp Hoa xác quyết một điều nằm trong toàn bộ kinh điển Phật giáo mà ai cũng biết: trong mỗi con người, ai cũng có Phật tính, ai cũng có Phật trong lòng. Có khi tính Phật đó mờ đi như trăng bị mây che, nhưng trăng vẫn còn đó, đâu có mất.

Bởi vậy, Phật giáo không hề coi ai là kẻ thù vì ai cũng giống mình, bình đẳng với mình, thù người chẳng hóa ra thù cả đức Phật trong người ấy hay sao? Không chống con người, Phật giáo chỉ chống hành động. Hành động có thiện có ác, ác thì phải chống. Nguyên tắc kinh điển này, các vị lãnh đạo Phật giáo long trọng tuyên bố ngay từ đầu trong Tuyên ngôn Từ Đàm: "Chúng tôi không coi ai là kẻ thù, nhất là đối với đạo Thiên chúa".

Không coi ai là kẻ thù, tư tưởng đó của Phật giáo trùng hợp với tư tưởng của Gandhi mà cuộc đấu tranh 1963 xem như là gương sáng. Gandhi nói: "Một hành động tốt phải được tán thành, một hành động xấu phải được phản đối, người làm hành động, dù tốt hay xấu, luôn luôn phải được kính trọng hay thương xót tùy theo trường hợp. Hãy ghét tội lỗi chứ không phải người làm tội lỗi... Chống lại hay tấn công một hệ thống là đúng, nhưng chống lại hay tấn công tác giả của hệ thống ấy là giống như chống lại hay tấn công chính ta"

Ứng dụng tư tưởng ấy vào hành động, bản Tuyên ngôn nói rõ: "Chúng tôi không chủ trương lật đổ. Chúng tôi chỉ có cái nguyện vọng "cải thiện chính sách". Chúng tôi không nói vấn đề người. Người nào đứng ra phụ trách chính phủ mà chính sách không cải thiện thì nguyện vọng của chúng tôi không thỏa mãn".

Đó là đối với chính phủ. Đối với đạo Thiên chúa mà chính phủ Diệm nâng lên như thử là quốc giáo cũng vậy. Bản Tuyên ngôn nói trực tiếp: "Chúng tôi tranh đấu là tranh đấu cho lý tưởng công bình (mà vì thế mà động cập đến đạo Thiên chúa) chứ không phải tranh đấu với tư cách một Tôn giáo chống với một Tôn giáo... Chúng tôi cho rằng bất cứ ai, kể cả chúng tôi, nếu cho Tôn giáo của mình có giá trị tuyệt đối và chỉ có Tôn giáo của mình mới đáng tồn tại thì đây là quan niệm sai lầm nhất".

Bản chất của câu nói này là tôn giáo hay văn hóa? Tôi quả quyết là văn hóa.Qua Phật giáo, bản Tuyên ngôn muốn khẳng định một đặc tính của văn hóa Việt Nam mà Phật giáo là nòng cốt: tính khoan hòa, khoan dung. Ngày ấy, 1963, cũng như ngày nay, cũng như trong lịch sử thế giới, an ninh và đoàn kết dân tộc bị đe dọa bởi hiềm khích và thù hận tôn giáo. Nhìn văn hóa của Âu châu ngày trước, nhìn văn hóa của các nước Hồi giáo ngày nay, cái gì đã đưa đến chiến tranh, tàn sát, khủng bố? May thay, trong văn hóa Việt Nam không có nọc độc của thánh chiến. Không có cái tham sân si của chân lý độc tôn. Do đâu? Nhờ ai? Cái biệt tài của văn hóa khoan dung đó, Phật giáo tự hào cho mình và cho cả dân tộc. Suốt cả mùa tranh đấu, cho đến cả những năm 65, các nhà lãnh đạo chỉ nhắc lui nhắc tới có ngần ấy thôi. Tôi trích một đoạn chỉ thị:

"Nỗ lực và nỗ lực một cách liên tục để chấm cho dứt những chính sách không phù hợp với sự sinh tồn của Dân tộc và Phật giáo, phát triển Phật giáo bằng sự thực hiện của bản thân mà không bằng cách làm thương tổn các tôn giáo khác, càng nêu cao đức tính Từ bi bao nhiêu lại càng thực hiện đức tính Vô uý bấy nhiêu: đó là "ý thức Phật tử" đơn giản vô cùng nhưng khó khăn vô tận"

"Ý thức Phật tử" mà các vị lãnh đạo nhấn mạnh chính là ý thức về cái bản sắc văn hóa đặc thù ấy của tổ tiên mà Phật giáo phải gìn giữ và phát huy. Cái bản sắc ấy, các nhà thừa sai của thời xâm lược thuộc địa, rồi các chính phủ hậu thuộc địa kế thừa, đã tập trung sức lực để phá đổ, đưa đến cái Dụ số 10 quái gỡ mà chính quyền Ngô Đình Diệm triệt để tận dụng.

Gián tiếp, Dụ số 10 chỉ xem có một tôn giáo ở Việt Nam thôi là Thiên chúa giáo, Phật giáo đứng ngang hàng với các hiệp hội, không hơn gì các hội từ thiện, thể thao, một thứ tín ngưỡng vặt. Từ giám mục Puginier của thời xâm lược đến giám mục Ngô Đình Thục của thời Bến Hải chia đôi, chính sách độc tôn bay thẳng một đường mũi tên, nhắm trái tim của văn hóa khoan hòa truyền thống mà bắn. Thách thức của 1963 là thách thức ấy. Thách thức văn hóa dựa trên sức mạnh chính trị, quân sự. Y hệt thời các Đô đốc thực dân nả súng vào Đà Nẵng. Đứng trên mặt văn hóa, hai thời kỳ giống nhau như hai trẻ sinh đôi. Cả hai đều có bối cảnh là chiến tranh, cả hai chiến tranh đều cho phép một lực lượng luận thuyết rằng muốn thắng quân sự phải dùng đến cái súng cối văn hóa. Tự bảo vệ mình để bảo vệ văn hóa của dân tộc: ý nghĩa của 1963 là vậy. Căn bản là bảo vệ văn hóa. Lật đổ ông Diệm không phải là vấn đề đặt ra. Tận trong thâm sâu, Phật giáo không muốn làm chính trị.

Lịch sử của các cuộc nổi dậy ở đâu cũng bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ, không toan tính trước, tưởng như tình cờ nhưng thực sự nằm trong một diễn biến hợp lý. Phong trào Phật giáo năm 1963 cũng bắt đầu bằng một biến cố như vậy: đó là lệnh cấm treo cờ Phật giáo trong ngày Phật Đản, đưa đến vụ thảm sát tám em bé trước đài phát thanh Huế.Lệnh đó đến từ đâu? Từ tổng giám mục Thục. Từ một chức sắc tôn giáo. Uất ức nhẫn nhục trong chín năm tràn đầy thêm một giọt nước mắt. Phật giáo không cho đó là nhục riêng của mình. Nhục chung cho cả văn hóa của tổ tiên. Thêm vào đó, ông Thục đang trấn địa ở ngay Huế, vốn được coi là "kinh đô Phật giáo" của cả miền Trung. Dân Huế hàng năm vẫn còn cúng giỗ các âm hồn trên các đường phố để kỷ niệm ngày thất thủ kinh đô năm 1885. Thiết giáp mà ông Thục đã ra lệnh bao vây đài phát thanh và nả súng vào dân chúng được xem như một vụ tấn công vào kinh đô lần thứ hai, lần này là kinh đô văn hóa.

Bạo lực trong hành động đi đôi với bạo lực trong lý thuyết. Mùa hè 1963, giáo chức đại học Huế chúng tôi được triệu lên Viện Đại Học để nghe ông Thục dạy về tôn giáo. Ông dạy: đại đa số người Việt Nam theo "đạo ông bà", Phật giáo chỉ là thiểu số. Ông dạy như thế trong một thành phố mà nhà nhà treo cờ, người người mô Phật.

Gandhi có nói: "Tôi đã học được, qua kinh nghiệm cay đắng, một bài học tối thượng về sự kiềm chế giận dữ, và giống như hơi nóng nén lại thì được chuyển thành năng lượng, giận dữ được kiềm chế có thể chuyển thành sức mạnh có khả năng dời cả thế giới". Ông Diệm đã tấn công vào thành trì văn hóa trong suốt chín năm, ông Thục bồi thêm một phát đại bác văn hóa cuối cùng, và phẫn uất biến thành lịch sử 1963 dời được cả một thế giới cuồng tín.

Pháp nạn năm 1963 là vậy: cuồng tín không phải là văn hóa Việt Nam. Chống cuồng tín là bảo vệ văn hóa. Không phải làm chính trị. Đây là điểm thứ hai phải nói rõ, bởi vì câu hỏi "Phật giáo muốn gì?" được đặt ra rất gay gắt, nhất là từ phía người Mỹ, tác nhân chính trong chiến tranh, sau năm 1963.


Giáo sư Cao Huy Thuần
(Người gửi bài: Đông Ba)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2015(Xem: 7201)
Trong một thập niên qua, trong hàng chục bài pháp thoại cho Tăng Ni và Phật tử đăng trên trang nhà Chùa Giác Ngộ[1] và trang nhà Youtube[2], tôi thường khẳng định rằng khái niệm “84,000 pháp môn” là do Phật giáo Trung Quốc đặt ra, chứ trên thực tế, đức Phật chỉ truyền bá con đường duy nhất là Tứ thánh đế, mà cốt lõi là nhận diện khổ đau, truy tìm nguyên nhân của nỗi khổ, niềm đau và thực tập bát chính đạo để đạt được niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
24/02/2015(Xem: 18041)
Lúc tôi viết những dòng về cuốn sách của Linh mục Nguyễn Văn Thư, thì bom đạn đang tiếp tục nổ trên một phần của trái đất, nhân mạng con người bị xem như cỏ rác. Hệ lụy nầy phải chăng có nguồn gốc từ các tôn giáo độc thần còn sót lại? Nhân loại ít có những ngày vui; phần lớn là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh mà nhiều trường hợp y học tân tiến cũng đành chịu bó tay.
22/02/2015(Xem: 6113)
Đây là câu hỏi lớn, liên hệ đến quyết định của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Do vậy, việc trao đổi dưới đây chỉ là quan điểm cá nhân của riêng tôi. Trước hết, theo tôi, chúng ta phải mạnh dạn đánh giá lại giá trị và giới hạn của các pháp môn được Phật giáo Việt Nam tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Khi đánh giá bằng các thống kê xã hội học cụ thể, ta sẽ rút ra được những kết luận nhất định. Vào năm 1945, dân số của nước Việt Nam khoảng 25 triệu người, trong đó Phật tử chiếm 80%. Đến năm 2013 chúng ta có trên dưới 90 triệu dân và số lượng Phật tử chỉ còn lại 38%. Đó là dữ liệu giúp ta đánh giá cách thức làm đạo của Phật giáo. Chúng ta phải thừa nhận rằng không phải cái gì của Phật giáo Trung Quốc truyền bá đều đúng và cần được tôn thờ như chân lý. Thước đo bằng thống kê trên sẽ giúp ta tránh được những quan điểm trái ngược: theo hay không theo, chịu ảnh hưởng hay không chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc.
16/02/2015(Xem: 10390)
Bài học cho Việt Nam Những thái độ vô tâm, hờ hợt trước tình hình đất nước của chúng ta sẽ góp phần biến Việt Nam thành Tây Tạng thứ 2, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh đang hướng về Việt Nam, chuyện này rồi sẽ xảy ra nếu mọi người vẫn chưa kịp thức tỉnh!
10/02/2015(Xem: 7884)
1) Khuynh hướng 1 xuất phát từ Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà Nho nắm vai trò lãnh đạo chính trị của Đại lục muốn dành cái quyền ngự trị quan điểm tư tưởng triết học tôn giáo của họ trên bề mặt nhận thức văn hóa và đời sống tinh thần của cư dân họ. Chủ trương họ đưa ra là Tam Giáo Đồng Nguyên. 2) Khuynh hướng 2 cho rằng tôn giáo nào cũng dạy con người “lánh ác làm lành” và đạo Phật cũng là một trong các tôn giáo như thế. Từ đó, với mục đích “Dĩ hòa vi quý” trong quá trình làm đạo chúng ta dễ dàng bị rơi vào các cái bẫy đó và cố đánh đồng bằng cách hạ thấp đạo Phật xuống để đẳng thức hóa với các tôn giáo vốn khác với đạo Phật.
30/01/2015(Xem: 6358)
"Việc chém con lợn đang sống khỏe mạnh là lối đối xử tàn ác, nó làm trơ lì cảm xúc của người xem, đặc biệt là trẻ em", ông Nguyễn Tam Thanh, cán bộ Phúc lợi Động vật, Tổ chức Động vật châu Á, trao đổi với VnExpress ngày 29/1.
30/01/2015(Xem: 22493)
“Việt Nam Thi Sử Hùng Ca” được tôi (TNT Mặc Giang) sáng tác vào tháng 9 năm 2003. Từ năm 2003-2005, tác phẩm này do tôi tự in ấn nhiều lần bằng hình thức Photocopy, biếu tặng những người quen biết và người thân tại Việt Nam và tại Úc. Tôi dự tính xuất bản chính thức quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca, nên đã nhờ SG. Phạm Trần Quốc Việt viết Lời giới thiệu từ năm 2005. Vì những trục trặc ngoài ý muốn, nhất là gặp khó khăn về tài chính, tôi đã chưa thể xuất bản chính thức. Ông Phạm Trần Quốc Việt nay vẫn còn khỏe mạnh. Lời giới thiệu của ông tôi vẫn tôn trọng giữ nguyên trong ấn bản internet tại trang nhà Hương Đạo.[1] Thực ra, từ mười năm qua, trang nhà Lương Sơn Bạc online[2] tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của tôi, đúng với nguyên văn của tôi sáng tác.
22/01/2015(Xem: 11181)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
20/01/2015(Xem: 5903)
Không thể phủ định rằng giáo dục Phật giáo dựa trên ba phương diện minh triết Phật dạy bao gồm giáo dục đạo đức (giới), giáo dục chuyển hóa (thiền) và giáo dục tri thức giải quyết vấn nạn (tuệ). Người được đào tạo trong trường Phật học, ngoài kiến thức thông thường còn thực tập chuyển hóa, mang tính ứng dụng thực tiễn và có khả năng giải quyết các nỗi khổ niềm đau của bản thân và tha nhân. Để nền giáo dục Phật giáo tại Việt Nam đáp ứng được các mục đích nêu trên, chương trình đào tạo Phật học tại Việt Nam cần có sự thích ứng với xu thế giáo dục Phật học trên thế giới là điều không thể bỏ qua. Trong bài viết này, tôi trình bày vài nét về a) Bản chất đào tạo Phật học, b) Nền Phật học Tây Tạng và c) Hướng đến cải cách giáo dục Phật học tại Việt Nam. Các vấn đề trên chỉ được nêu ra một cách khái quát, chưa đi sâu vào việc phân tích.
15/01/2015(Xem: 5312)
Vụ nhật báo Người Việt kiện tuần báo Saigon Nhỏ về mạ lỵ phỉ báng được khởi sự từ tháng 9 năm 2012, nhưng đến tháng 12 năm 2014 mới được đưa ra xét xử. Sau một phiên tòa kéo dài bốn tuần, ngày 30.12.2014, tòa tuyên phạt bà Hoàng Được Thảo và tuần báo Saigon Nhỏ 4.500.000 USD. Các cộng đồng người Việt hải ngoại trên thế giới đều xôn xao. Nhiều người đã điện thoại hay gởi email cho chúng tôi và hỏi: Tại sao ra nông nỗi này? Báo Saigon Nhỏ là báo chống cộng mà? Có gì bí ẩn đàng sau?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]