Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đường hướng giáo dục Phật giáo

28/08/201012:05(Xem: 5508)
Đường hướng giáo dục Phật giáo
ducphatthichca

ĐƯỜNG HƯỚNG
GIÁO DỤC PHẬT GIÁO
Nguyên tác 'The Buddhist Approach to Education'
của Đoàn viết Hoạt - Trần Chung Ngọc dịch


Lời nói đầu :

Tình cờ tôi thấy trong thư viện đại học Wisconsin-Madison bài "The Buddhist Approach to Education", đăng trong tờ Vạn Hạnh cách đây hơn hai mươi năm của Giáo Sư Đoàn Viét Hoạt. Nhận thấy đây là một bài viết đặc sắc nói lên trung thực phần nào thực chất Phật Giáo và quan niệm giáo dục của Phật Giáo cho nên tôi dịch ra tiếng Việt để cống hién quý độc giả; và cũng để ghi nhận sự đóng góp cho Phật Giáo của Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt trong vấn đề giải hoặc một số ngộ nhận về Phật Giáo mà vì lẽ nào đó đã kéo dài trong tâm cảnh ngay cả những lãnh tụ "tôn giáo bạn" cho tới tận ngày nay.

Một điểm đặc biệt tôi nhận ra khi đọc bài này là nội dung của bài khá mâu thuẩn đối với một số bài thơ trong cuốn "Tâm tình của Đoàn Viết Hoạt" do Phong Trào Nhân Quyền Cho Việt Nam Năm 2000 xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1995: những bài "Bánh Thánh", "Giáng Sinh 1997", và "Chúa Sẽ Đến Với Ai" trong đó có vẻ như tác giả đề cao vai trò "cứu rỗi" của Chúa Giê-su. Trái lại, trong bài "Đường Hướng Giáo Dục Phật Giáo" này, Đoàn Viết Hoạt đã dứt khoát không chấp nhận quyền lực của Thượng Đế hay một Thần Quyền nào đối với con người.

Thực ra thì sau khi đọc và phân tích bài "Phúc Trình" của Đoàn Viết Hoạt về vấn đề nhân quyền và chứng minh rằng bản "Phúc Trình" đó không thể nào là của Đoàn Viết Hoạt (đã dăng trên Thế Kỷ 21 và đưa lên Vietnet), trong những bài thoo trong cuốn "Tâm tình.." tôi thực sự không biết bài nào của Đoàn Viết Hoạt và bài nào không phải của Đoàn Viết Hoạt.

Những phần để trong dấu ngoặc đơn là của người dịch, hoặc để bày tỏ vài ý kiến riêng, hoặc để làm rõ nghĩa hơn một vấn đề trong bài. TCN


Trước khi chúng ta thảo luận về đường hướng giáo dục Phật giáo, tôi nghĩ chúng ta cần bác bỏ hai điều mà người ta thường hay trách cứ Phật Giáo. Điều trách cứ thứ nhất là: Phật giáo có một quan điểm bi quan về đời sống. Điều này không đúng ngay với cả một sự hiểu biết ít ỏi về căn bản Phật Giáo. Làm sao người ta có thể trách cứ Phật giáo là có một quan điểm bi quan khi mà tất cả những điều Đức Phật làm là can đảm nhìn vào bản chất không sự thực của hiện hữu và đề nghị một lối thoát ra ngoài cái ảo tưởng này, giải thoát ra khỏi Tham, Sân, Si? Làm sao chúng ta có thể cho ràng Phật giáo có một quan điểm bi quan khi Đức Phật đã bác bỏ sự thống trị của những lực ngoài thế gian trên số phận con người, và đã dạy chúng ta phải tự do tìm hiểu và độc lập đối với mọi tín điều, đặt căn bản giáo lý của Người trên một niềm tin sâu xa và mãnh liệt vào khả năng của con người? (hãy tự mình tinh tiến tới giải thoát)? Thật vậy, con người có quyền suy tư về giáo lý nào ít bi quan hơn, giáo lý dạy con người có thể chấm sự khổ bằng chính những nỗ lực của mình, hay là giáo lý dạy ràng sự giải thoát của con người tùy thuộc vào một vị Thần, rằng chỉ có một số nhỏ được Thần "chọn", đa số còn lại bị đày vĩnh viễn nơi hỏa ngục?

Điểm trách cứ thứ hai là: Phật Giáo là một giáo lý ích kỷ, làm tê liệt năng lực con người. Chỉ cần vài câu cũng đủ bác bỏ điều trách cứ này. Chính Đức Phật, sau khi Giác Ngộ, đã thuyết giảng giáo lý của Người cho mọi người trong suốt 45 năm. Một trong những giáo lý căn bản của Phật Giáo là từ bỏ sự hiện hữu của một cái Ta hay Ngã (thuyết Vô Ngã): mọi vật đều không có tự tính. Niết bàn, cứu cánh tột đỉnh của Phật Giáo, là trạng thái vô ngã, vô chấp, không thể đạt tới bằng sự ích kỷ. Còn như làm tê liệt năng lực, Đức Phật đã dạy những điều nên làm và không nên làm: làm những việc thiện, tốt, và không làm những việc xấu. Người nói: "Có một đức tính ảnh hưởng đến hạnh phúc lớn lao của con người. Đó là nhiệt tâm làm những việc tốt lành một cách không mệt mỏi". Nếu người ta có thể trách cứ Phật Giáo là làm tê liệt năng lực thúc đẩy con người tạo nghiệp xấu. Tôi không thấy ở nơi nào khác một sự đòi hỏi một năng lực trường kỳ và nỗ lực như trong sự thực hành Bát Chánh Đạo.

Sự giải hoặc dài dòng ở trên là điều cần thiết vì nếu Phật Giáo thật sự bi quan, ích kỷ và làm tê liệt năng lực thì đâu cần phải nói đến đường hướng giáo dục Phật Giáo làm chi, vì giáo dục là một qúa trình tích cực xã hội.

Vậy thì mục đích của giáo dục, theo quan điểm của những nhà giáo dục Phật Giáo là gì ? Mục đích này phù hợp với chính mục đích của Phật Giáo. "Mục đích là dẫn học trò đến tự giác, tự mình làn chủ chính mình". Đối với những nhà giáo dục Phật Giáo, giáo dục không có mục đích xã hội hoá đứa trẻ điều chỉnh đứa trẻ một sự hiều biết dần dần về bản chất thực của sự hiện hữu, bản chất thực sự của con người và của chính mình, qua sự phân tích và thực hành. Mục đích chung cùng của giáo dục là hướng nội chứ không hướng ngoại, giáo dục tâm lý chứ không giáo dục xã hội. "Hãy nhìn vào chính mình; ngươi chính là Phật". Mục đích là giải phóng con người khỏi bị lôi cuốn bởi tham, sân, si để cho con người có thể thấy được thực tại và chân lý nó là như vậy. Con người có thể trở thành một người Giác Ngộ.(*)

Để đạt mục đích tối hậu này, có hai mục đích phụ cần đạt tới. Đó là sự phát triển suy lý phê bình và sự tin cậy vào chính mình. Đức Phật cực lực phản đối một niềm tin mù quáng. Người nói với các đệ tử: "Thật là chính đáng và tự nhiên khi những nghi kiến khởi dậy nơi các Thầy. Các Thầy phải từ bỏ niềm tin mù quáng. Đừng có xét đoán dựa theo tin đồn, theo truyền thống, theo những lời đoan chắc vô căn cứ, theo thẩm quyền của những cái gọi là Thánh thư; đừng có xét đoán theo bề ngoài, hoặc tin vào bất cứ gì mà một bậc tu hành hay một sư phụ đã nói như vậy". Cho nên người Phật tử không tin vào bất cứ điều gì cho tới khi tự mình nhận thức được rằng điều đo là đúng. Trên con đường tiến tới Giác Ngộ, người Phật tử tin cậy ở chính mình. Một bậc thầy chỉ là người hướng dẫn, một người đã ngộ đạo nhưng không thể đi thay đệ tử trên con đường này. Những lời cuối cùng của Đức Phật nói với đệ tử là: "Các Thầy hãy tự mình tinh tiến tới giải thoát". Trong một trường hợp khác, Người nói: "Các Thầy phải tự mình cố gắng lên, Chư Phật chỉ chỉ đường". Do đó, giáo dục phải được quan niệm như là một phương tiện để phát triển lòng tự tin, sự tin cậy vào chính mình, vào óc suy lý, những điều cần thiết trong nỗ lực tiến tới Giải Thoát.

Để phù hợp với những mục đích này, phương pháp giáo dục phải dạy cả hai phần suy tư và từ bi, trí thức và luân lý. Để gợi ra sự suy tư trong con người của học viên, nhà giáo dục Phật Giáo nên tiến hành từ chỗ biết đến chỗ chưa biết vì chỉ có từ chỗ biết học viên mới có thể phát triển dần dần khả năng suy lý, sự tin cậy vào chính mình và lòng tự tin. Người ta không thể đạt được một kiến thức chân thật bằng cách cầu nguyện vào nơi mình chưa biết rõ hoặc bằng những giả định hay suy đoán có tính cách giáo điều. Chỉ bằng cách tìm hiểu và phân tích những sự kiện cụ thể, khảo sát đời sống hiện tượng một cách khách quan, tìm về nguyên nhân của chúng, người ta mới biết được chân lý. Đây là "phương pháp giải quyết vấn đề". Những trẻ em "phải được dạy suy nghĩ như thế nào hơn là suy nghĩ cái gì". Tự do tư tưởng thật cần thiết trong nền giáo dục hiện đại.

Những suy tư và phân tích luận lý không đủ. Cần phải kèm theo lòng từ bi. Không có lòng từ bi, sự dạy dỗ cũng như học hỏi đều vô ích vì người ta chỉ có thể thấy được nguyên nhân của những sai lầm, ảo tưởng và hành nghiệp xấu khi người ta nhìn sâu vào tâm của chính mình và của những người khác. Nếu người ta muốn thoát khỏi ảo tưởng thì ham muốn chính là cái người ta phải dứt bỏ. Sự ham muốn có thể hiểu được qua suy tư và phân tích nhưng chỉ có thể đoạn diệt bởi tính hoàn toàn vô vị kỷ, hoàn toàn vô chấp, hoàn toàn từ bi đối với mọi người cùng đang khổ. "Chân lý đạt được không chỉ bằng luận lý, mà bởi sự tan biến của ham muốn qua sự hiểu biết ".

Đặc biệt là phương pháp giảng dạy của Phật Giáo cho chúng ta những nguyên tắc hữu ích. Phương pháp này gồm có bốn cách loại bỏ nghi kiến của học viên, và những quy tắc được dùng trong sự giảng dạy Phật Pháp cho người thường, sự nghiên cứu những điều học hỏi tinh thần của học viên và tu tập bản thân. Bốn cách loại bỏ những nghi kiến là: (a) vấn đáp; (b) trả lời trực tiếp; (c) trả lời từng phần cho những phần trong câu hỏi; và (d) không trả lời những câu hỏi không trả lời được. Về sự giảng dạy Phật Pháp cho những người thường, Đức Phật đề nghị những quy tắc sau đây: (a) đi dần từng bước một; (b) dùng ái ngữ; (c) tránh những vấn đề ngoài lề; (d) phối hợp chi tiết quanh một chủ đề; và (e) tránh dùng những lời châm chọc càng nhiều càng tốt. Về sự nghiên cứu vấn đề học hỏi tinh thần của học viên, phương cách hành trì, tính tình của học viên v.v.. Nói ngắn gọn, "ngay cả trên quan điểm sư phạm ngày nay những phương pháp của Đức Phật thật đáng chú ý và có thể áp dụng trong nhiều trường hợp."

Phật Giáo nhấn mạnh đến vấn đề thực hành và áp dụng những điều học hỏi được. Sự giảng dạy thật là vô nghĩa trừ khi bậc thầy làm theo lời mình dạy. "Một trí giả hãy tự mình đi trên chánh đạo rồi mới giảng dạy cho người khác". Không có sự tương phản giưã lý thuyết và thực hành. Chánh Tư Duy và Chánh Mạng thì tương quan với nhau nơi thiện trí thức. Nguyên tắc này được áp dụng cho cả thầy lẫn trò. Đức Phật nói: "Người nào biết Giáo Pháp mà không tự mình thực hành thì cũng như một người chăn bò đếm bò của người khác: không có phần gì trong cộng đồng những người tu hành.

Do đó, sự học hỏi phải liên quan tới đời sống thực sự. Nhà giáo dục Phật Giáo gạt bỏ quan niệm giáo dục tháp ngà, chỉ quan tâm tới tư tưởng thuần túy và lý thuyết. Như Humphreys đã viết: "Không ở trong tôn giáo nào khác mà người ta thấy sự áp dụng những điều học hỏi như ở trong Phật Giáo. Phật giáo không chỉ là một hệ thống giáo lý; đó là một Lối Sống."

Theo quan điểm của nhà giáo dục Phật Giáo, nếu mục đích của giáo dục không phải là điều chỉnh con người cho phù hợp với những điều kiện ngoại vi trong xã hội, vậy thì chương trình học không nên đặt trước và cố định. Học hỏi là học viên có thể học được cái gì chứ không phải cái mà ông Thầy muốn dạy mà không để ý đến nhu cầu thật sự và khả năng của đứa trẻ. "Nhà giáo dục Phật giáo phân biệt một học trình đã được vạch sẵn và những cái mà học viên lãnh hội được trong quá trình học hỏi. Nhà giáo dục chỉ cung cấp những phương tiện cần thiết để cho sự học hỏi có thể thực hiện được.

Khi hoạch định một học trình như vậy, nhà giáo dục nên coi Tam Học (Giới, Định, Huệ, TCN) như là một tiêu chuẩn cần thiết và hữu ích. Tam Học gồm có: (a) đạo đức cao hay là tu tập đức tính; (b) suy tư sâu xa hay là tu tập thiền định; và (c) nội quán hay tu tập trong sự hiểu biết để tiến tới giác ngộ. Sự tu tập Giới gồm có lòng quảng đại, đạo đức, tác phong và kiên nhẫn; sự tu tập về Định liên hệ đến Thiền quán; và sự tu tập về Huệ là sự tỉnh thức bắt nguồn từ trí tuệ thấy được chân lý chung cùng. Sáu độ (Ba La Mật) trên là những tiêu chỉ của nhà giáo dục Phật giáo khi hoạch định một học trình.

Một lời cuối về giáo dục luân lý theo quan niệm của nhà giáo dục Phật Giáo. Mọi hệ thống giáo dục đều có mục đích phát triển luân lý đạo đức. Giáo dục Phật Giáo cũng nhấn mạnh đến sự quan trọng của giáo dục luân lý; nhưng giáo dục luân lý là phó sản của một nền giáo dục đúng -giáo dục Con Người Giác Ngộ. Đức Phật không bao giờ dạy một hệ thống đạo đức cố định. Người chỉ chỉ cho chúng ta Chân Lý: Luật Duyên Sinh. Định luật này có thể phát biểu một cách giản dị như sau: "Cái này có thì cái kia có; cái nầy sinh thì cái kia sinh; cái nầy không có thì cái kia không có; cái này diệt thì cái kia diệt". Những hành động tốt thì mang tới kết qủa tốt; hành động xấu thì mang tới kết quả xấu. Cái nào tốt? và cái nào xấu? Cái nào làm tăng tham, sân, si và sự khổ thì xấu; cái nào giúp chúng ta giảm và đoạn diệt được tham, sân, si và sự khổ thì tốt. Định rõ là "cái tốt của bất cứ điều gì phải được khám phá ra bất cứ lúc nào bằng sự thực nghiệm, bằng sự xét đến mọi yếu tố, kể cả những động cơ thúc đẩy chúng ta, liên hệ đến vấn đề". Sự giáo dục luân lý này là phần cốt yếu trong sự giáo dục Người Giác Ngộ vì, thật ra, Giác Ngộ không chỉ gồm có trí huệ, mà cả ba : Giới, Định, Huệ. Thật vậy, khi nói rằng đạo đức cao là Phật Giáo thì không xa với một sự hiểu biết chân thật về Phật giáo. "Đừng làm những điều ác; Hãy làm những điều thiện; giữ tâm ý cho thanh tịnh; đó là lời chư Phật dạy". (Kinh Pháp Cú 73: "Chư ác mạc tác; Chúng thiện phụng hành; Tự tịnh kỳ ý; Thị Chư Phật Giáo". TCN) Người ta cũng có thể nói rằng, Giác Ngộ là trình độ đạo đức cao nhất mà con người có thể đạt được. Do đó, giaó dục Phật Giáo là giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức cao nhất -Sự Giải Thoát của nhân loại ra khỏi Vô Minh và Khổ.

Để kết luận, nền giáo dục đúng cho người Phật tử là nền giáo dục dẫn đến sự phát triển con người tới Giác Ngộ, một con người thoát khỏi tham, sân, si và khổ, nhìn Thực Tại nó là như vậy; một con người làm chủ được những hành nghiệp của mình, dù sai hay đúng. Con người Giác Ngộ này là mục đích tối hậu mà giáo dục Phật Giáo nhắm tới. Sự phát triển để con người Giác Ngộ thật là cấp bách cần thiết trong thời gian hiện tại, trong thời gian mà con người bị xâu xé bởi tham, sân, si, nghi ngờ và chiến tranh, một thời gian mà đặc tính là sự thống trị của những yếu tố vật chất và kỹ thuật chế ngự con người. Chỉ khi nào con người làm chủ được định mệnh của chính mình, lòng tham của chính mình, tư tưởng và hành động của chính mình, con người có thể hãnh diện về mọi tiến bộ khác; chỉ khi đó nền văn minh mới là Văn Minh của nhân loại và chúng ta có thể vinh dự vì nền văn minh này.


Ghi chú:

(*) Khi viết đoạn trên, có thể Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt chỉ nhìn giáo dục trên một góc cạnh hướng về mục đích tu tập trong Phật Giáo chứ không phải là toàn bộ giáo dục trong Phật Giáo. Phật Giáo không quên những thực tế trong xã hội. Thật vậy, trong Trường Bộ Kinh, Đức Phật đã vạch rõ cho chúng ta thấy sự nghèo khổ là nguồn gốc của vô luân và tội ác như trộm cướp, gian lận, bạo hành, sân hận, độc ác v.v... Đức Phật đề nghị rằng muốn giải quyết vấn đề tội ác, điều kiện kinh tế của dân chúng phải được tăng tiến. Người đã chỉ rõ cho Phật tử tầm quan trọng của sự cải tiến tình trạng kinh tế của con người. Nhưng điều này không có nghĩa là Đức Phật khuyên mọi người đi tích lũy của cải bằng bất cứ phương tiện nào để thỏa lòng tham và chấp vào vật chất vì đây là điều trái ngược với giáo lý căn bản của Người.

Đức Phật đã dạy một người dân thường tên là Dighajanu là có bốn điều kiện đưa hạnh phúc đến cho con người ở trên cõi đời -Thứ nhất: chăm chỉ, cố gắng đạt tới "nhất nghệ ting,nhất thân vinh"; Thứ nhì: phải bảo vệ tài sản kiếm được một cách chính đáng bằng mồ hôi, nước mắt; Thứ ba: kết bạn với các thiện tri thức nghĩa lá những ngưới đạo đức. Học rộng, biết nhiều, phóng khoáng và thông minh, để giúp mình tiến bộ trên Chánh Đạo, xa lánh ác nghiệp; Thứ tư: tiêu pha trong khả năng và dành một phần cho những việc thiện, không bần tiện mà cũng không hoang phí.

Sau đó Đức Phật nêu ra bốn đức tính đưa đến hạnh phúc trong tương lai của con người, và đây mới là những mối "phúc thật" chính tông: (1) Phải có lòng tin vào những giá trị đạo đức, tinh thần và trí thức (Sanddha); (2) Phải giữ năm giới căn bản của Phật tử (Sila); (3) Thực hành hạnh bố thí, lòng quảng đại, không bám chặc vào của cải (Caga); (4) Phát triển trí tuệ trên con đường diệt khổ, nhằm cứu cánh Niết Bàn (Panna).

Như vậy chúng ta thấy rằng giáo lý của Đức Phật nhằm tạo ra sự ổn định kinh tế gia đình và từ đó đưa đến sự ổn định và phát triển kinh tế quốc gia, mang lại hạnh phúc cho dân chúng. Và những giáo lý này nhằm giáo dục con người đối diện với những thực tế trong xã hội. TCN


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2015(Xem: 8559)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 5128)
Một bức ảnh gây xúc động thế giới. Xúc động vì mái tóc đen mướt của em. Vì chiếc áo đỏ, quần xanh em mặc. Vì đôi giày em mang. Cứ như em vừa ăn mừng sinh nhật thứ ba cùng bố mẹ. Và nhất là cái dáng em nằm nghiêng nghiêng trên bờ cát. Nếu không có những ngọn sóng lừng lững đang tiến vào bờ, cứ tưởng như em đang nằm ngủ.
08/07/2015(Xem: 7275)
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã chính thức phán quyết rằng hôn nhân đồng giới tính là quyền hợp pháp trên toàn nước Mỹ. Như vậy tính cho đến nay đã có 21 nước trên thế giới có hôn nhân đồng giới tính được luật pháp quốc gia sở tại công nhận (Netherlands, Belgium, Spain, Canada, South Africa, Norway, Sweden, Portugal, Iceland, Argentina, Denmark, France, Brazil, Uruguay, New Zealand, Britain, Luxembourg, Finland, Ireland) và Hoa Kỳ là nước thứ 21 đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ngày 26 tháng 6 năm 2015 vừa qua. [1] Đồng tính luyến ái (homosexual) được các nhà triết học định nghĩa là những ước muốn tình dục hướng tới những người cùng giới tính đồng thời giảm đi sự thích thú tình dục đối với những người khác giới và hôn nhân đồng giới tính (same-sex marriage) là sự kết hợp giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ.
06/07/2015(Xem: 12913)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
21/06/2015(Xem: 11711)
Trân trọng kính thưa vài lời thương cảm với quê hương nước Việt ! Với chàng Tàu Cọng khồng lồ mà gian ác ! Xin kính dâng vài ý kiến nho nhỏ với các Quốc chủ, và các chủ bài “Yêu Nước” trên mạng, thật bao quát có chiều sâu và chiều rộng về chiến lược, mang tính tồn vong cho thế giới. Ngày nay ai cũng biết hiểm họa chung cho thế giới là TÀ GIÁO VÀ CỌNG SẢN vậy tất cả các quốc gia đều sẽ lâm nguy với hai con bạch tuộc trong Đại Dương nầy, ngày nay.
21/06/2015(Xem: 5563)
Nhiều năm qua, nhân kỷ niệm ngày báo chí VN, cũng như nhiều người khác, cá nhân tôi cũng nhận được không ít lần lời chúc mừng nổng thắm, qua đó mới chợt nhận ra mình đã và đang hoạt động trong lãnh vực báo chí. Nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là báo chí Phật giáo Việt Nam (PGVN). Trong dòng chảy chung của lịch sử báo chí dân tộc, việc nhận được những lời chúc đó âu cũng là điều bình thường, có khác chăng là mình đang ở lãnh vực báo chí PG .
21/06/2015(Xem: 10119)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
19/06/2015(Xem: 6775)
Hòa kết vô thần và tâm linh, thể xác và tinh thần, đạo Phật đã chinh phục trái tim của hàng vạn người Pháp. Nhưng cũng không tránh khỏi một vài cách hiểu sai lệch. Thế giới sẽ bước vào thiên niên kỷ thứ ba không rầm rộ trong tiếng kèn đồng, mà chắc chắn trong âm thanh của các loại kinh cầu nguyện mà thế kỷ 20 tưởng như đã có thể dập tắt được. Đúng vậy, đây là một sự lật ngược thế cờ của tâm linh đối với vật chất, của linh thiêng đối với duy lý, của nhập định đối với thụ hưởng. Một điều kỳ diệu bất ngờ: chúng ta sẽ chứng kiến một sự hỗn độn khủng khiếp mà trong đó, không mảy may nghi ngờ, cái hay song hành cùng cái dở.
14/06/2015(Xem: 9539)
Fake Buddhist monks are the new squeegee men of New York , They’re holy terrors. Bands of beggars dressed like Buddhist monks have invaded the High Line and other city parks, demanding upwards of $40 from tourists — and officials are fed...
14/05/2015(Xem: 7683)
Ngày chủ nhật vừa rồi vào bịnh viện thăm người bạn đạo đang nằm điều trị căn bịnh suy nhược thần kinh (!), người con trai cả của anh, cháu Nguyên Hà Nguyễn Hoài Dũng, hiện cũng là huynh trưởng cấp Tín của GĐPT, chìa ra cho tôi xem một tờ báo bị xé làm đôi. Khi chưa hết ngạc nhiên thì cháu Dũng nói “Hồi sáng này mấy đứa em mua hai gói xôi bắp đem vô cho con và ba con ăn, vô tình con thấy tờ giấy gói xôi có in bản tin này nên ba biều con xếp giữ lại, chờ đưa cho bác”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]