Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thảo luận về Đại Thiên (1)

08/04/201312:40(Xem: 5858)
Thảo luận về Đại Thiên (1)

Thảo luận về Đại Thiên (1)

Giác Dũng

Thân gởi Thầy Hạnh Bình, Tôi đã đọc được lá thơ của Thầy gởi cho Sư Chánh Minh và tôi trên trang Nhà Quảng Đức, www.quangduc.com. Xin chân thành cám ơn Thầy. Tôi nghĩ đây là cơ hội tốt để chúng ta thảo luận về một vấn đề có liên quan đến Phật giáo, hoàn toàn không mang tính hơn thua. Xin Thầy cùng chia xẻ với tôi quan điểm như vậy. Bây giờ không cần mất thời giờ, tôi xin đi vào từng câu trả lời cụ thể đối với lá thơ mà Thầy gởi cho tôi.

1Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

“Thứ 6, Lời phê bình về cách nhận định tư liệu của tác giả.

Thầy Giác Dũng trích dẫn nguyên văn trong tác phẩm NC5VĐT:

“9 bộ phái này, tất nhiên mỗi phái đều có lập trường và quan điểm đặc thù của riêng mình, nhưng với nguồn tư liệu hiện có trong Phật giáo, đề cập đến quan điểm tư tưởng của 9 bộ phái này thật là hiếm hoi, có thể nói là không có.”(trích từNC5VĐT trang 147).

Từ đó dẫn đến lời phê bình:

một lần nữa, tác giảcủa Nghiên cứu đã tỏ ra quá ư là cẩu thả và lười biếng trong nghiên cứu. “Kinh Tăng nhứt a hàm”, “Ma ha tăng kỳ luật” rõ ràng thuộc Đại chúng bộ. Tại sao lại nói là không có? Chẳng lẽ trong hai tác phẩm đồ sộ thế kia lại không tìm ra được tư tưởng của Đại chúng bộ ?”.

Thật ra, đoạn trênđược trình bày trong Chương V của tác phẩm NC5VĐT, với tựa đề ‘Từ tư tưởng của Đại thiên đến tư tưởng của các phái trong Đại chúng bộ’. Với tựa đề này, tác giả (HB) xem bản “Kinh Tăng Nhất A hàm” cũng như “Ma ha Tăng Kỳ Luật” là Kinh và Luật của Phật, quan điểm trong Kinh trong Luật đó là quan điểm của Phật dù nó được kiết tập thành văn tự, trước hay sau sự việc xảy ra 5 việc của Đại Thiên, do đó dĩ nhiên không thể có sự kiện vì 5 việc của Đại Thiên mà được đức Phật giải thích trong kinh hay trong luật này. Nếu có thể xảy ra, thì nó chỉ mang ý nghĩa, các Bộ phái của Đại chúng bộ căn cứ quan điểm trong Kinh trong Luật này để lý giải cho quan điểm của Bộ phái mình mà thôi. ”

-Câu trả lời của Giác Dũng :

Tôi đồng ý với Thầy là “Kinh Tăng Nhất A hàm” cũng như “Ma ha Tăng Kỳ Luật” là Kinh và Luật của đức Phật nhưng trong qúa trình biên tập, từ khẩu truyền cho tới sau khi được ghi thành văn tự đều có sự thêm vào hoặc cắt bớt một cách có ý thức. Tôi xin trích nguyên văn đoạn sau đây của Hòa Thượng Thích Minh Châu trong tác phẩm “So sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pàli” HT. Thích Minh Châu (1961), Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998) trên trang Nhà Quảng Đức http://www.quangduc.com/tacgia/thichminhchau.html

3. Sự kế thừa tổ vị :

Trong đồ biểu ở trang 18 của quyển sách nhan đề "Đại thừa (Mahàyàna) và sự liên hệ với Tiểu thừa (Hìnayàna)", Ma Ha Ca Diếp được xem là sơ tổ (àcariya) của Nhất thiết hữu bộ (Sarv.), Xá Lợi Phất Sàriputta được xem là sơ tổ (àcariya) của Thượng tọa bộ (Ther.). Dữ kiện này thêm vững chắc khi hai nhà Phật học Buston và Tàranàtha(31)cho chúng ta biết Ma Ha Ca Diếp (Mahàkassapa) giao phó sự lãnh đạo tăng già cho A Nan (Ànanda), trong khi Buddhaghosa(32)đưa ra một bản kê những luận sư (àcariyas) A tỳ đàm (Abhidhamma) khởi từ Xá Lợi Phất (Sàriputta). Chúng ta thấy trong kinh tạng chữ Hán (C. S.) số 26 rằng Xá Lợi Phất (C: Shê-li-tzu, P: Sàriputta) gọi Đại Ca Diếp (C: Ta-chia-yeh, P: Mahàkassapa) là Tôn giả (C: Tsun-che, P: Bhante), còn Đại Ca Diếp gọi Xá Lợi Phất là hiền giả (C: Hsien-che, P: Àvuso) (C số 184, vii, 35a, 10-11). Nhưng trong bản Pali, Xá Lợi Phất (Sàriputta) gọi Ma Ha Ca Diếp (Mahàkassapa) là hiền giả (Àøvuso) và Ma Ha Ca Diếp cũng gọi Xá Lợi Phất với danh xưng ấy (Àvuso). Sự khác nhau về danh từ xưng hô này, chứng tỏ kinh Trung a-hàm chữ Hàn (CMA) thuộc truyền thống Nhất thiết hữu bộ (Sarv.), một truyền thống tôn Ma Ha Ca Diếp (Mahàkassapa) làm sơ tổ, trong khi Trung bộ kinh Pali (PMN) thuộc truyền thống Thượng tọa bộ (Ther.) vốn xem Xá Lợi Phất là bậc thầy cao hơn cả Ma Ha Ca Diếp. Sự kiện này càng rõ rệt hơn khi ta thấy bản kinh Pali số 111, Anupadasutta, hoàn toàn bị gạt bỏ trong tất cả kinh A-hàm (Àgama),(33)vì trong kinh ấy đức Phật đã tán dương Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàriputta) như sau: (đoạn này khá dài nên người viết bài này không trích tiếp. Thầy có thể đọc tiếo trên mạng).

Như vậy, nếu như chấp nhận quan điểm của Thầy rằng “Đại Thiên là Tổ lãnh đạo Đại Chúng Bộ” thì chắc chắn với hai bộ vừa kinh và vừa luật đó, ít nhiều chúng ta cũng tìm thấy được một vài thêm thắt để nâng cao gía trị vị Tổ lãnh đạo của mình. Nếu như không tìm thấy một ghi chép hay một chỉ dẫn nào về nhân vật Đại Thiên trong Kinh Tăng Nhứt A Hàm và trong Luật Ma Ha Tăng Kỳ thì quan điểm cho rằng “Đại Thiên là Tổ lãnh đạo Đại Chúng Bộ” của Thầy cần xem lại.

(2)Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

“Thứ 8, Thầy Giác Dũng so sánh 4 bản dịch nhằm hủy bỏ nhân vật Đại Thiên sau Phật Niết bàn 100 năm.

Trong bài viết của mình Thầy Giác Dũng phê bình:

“…Hoàn toàn sai lầm. Một cách viết hết sức cẩu thả, không thể chấp nhận trong nghiên cứu! Như tôi sẽ trình bày cặn kẽ dưới đây, có sự khác nhau giữa bốn dịch bản này về nhân vật Đại Thiên và điều quan trọng hơn, chính sự khác nhau đó đã làm sụp đổ hoàn toàn giá trị của Nghiên cứu.” (trang….)

Căn cứ lời phê bình này, chúng ta thử tìm hiểu về phương pháp tìm tư liệu, phân tích và đánh giá tư liệu của Thầy, cũng như mục đích của nó như thế nào! Ngang qua công việc thực tế mà Thầy đã trình bày trong bài viết của mình, quả thật Thầy đã trích dịch 4 dịch bản khác nhau, cả bản Hán ngữ và Tạng ngữ. Theo sự sắp xếp thứ tự của Thầy, chúng ta thấy: 1. Bản Tây Tạng là “Gshung lugs kyi bye brag bkod pa'i 'khor lo”, do hai ngài: Dharmàkara và Bzang Skyong dịch từ Sanskrit sang tiếng Tây Tạng, 2. “Thập Bát Bộ Luận” (十八部論), do Ngài Chân Đế dịch, 3. “Bộ Chấp Dị Luận” (部執異論), cũng do Ngài Chân Đế dịch, 4. “Dị Bộ Tông Luân Luận” (異部宗輪論), do Ngài Huyền Trang dịch. Thầy (GD) cũng đã dịch 4 bản này sang Việt ngữ, đó là những đoạn có liên quan đến 5 việc và 5 việc của Đại Thiên. Đặc biệt, riêng bản Tây Tạng, Thầy lại trích nguyên cả tiếng Tây Tạng bằng phiên âm La tinh. Tôi đọc tới đây cảm thấy choáng váng, vì mình không biết tiếng Tây Tạng, làm sao có thể nói chuyện với Thầy, nhưng cũng may Thầy biết tôi không biết tiếng Tây Tạng, cho nên đã dịch sang tiếng Việt. Như vậy, nếu ai không biết tiếng Tây Tạng như tôi thì mình tạm thời cứ tin vào bản dịch của Thầy làm việc là được rồi.

Thật ra, 4 dịch bản này, tác giả của NC5VĐT cũng đã đề cập trong tác phẩm của mình[1],nhưnng chỉ vì trong lúc viết không tìm được dịch bản của tiếng Tây Tạng, nên không dám đưa vào danh sách thảo luận, chỉ đề cập đến tên của bìa sách mà thôi. Đây là một việc làm thiếu sót, cần rút kinh nghiệm. ”

-Câu trả lời của Giác Dũng :

Thưa Thầy, tác phẩm “Nghiên cứu 5 việc của Đại Thiên ”in năm 2006 không thấy tên của dịch bản tiếng Tây Tạng là gì. Vì cũng có liên hệ đến các câu hỏi sau nên xin hỏi Thầy tên dịch bản Tây Tạng mà Thầy định giới thiệu cùng chung với ba bản Hán dịch của Dị Bộ luận hệ là gì? Thầy có thể cho biết được không ạ?

3Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm này ( : “Không có nhân vật Đại Thiên vào khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt”(ở lời kết), chỉ có một nhân vật Đại Thiên được xuất hiện vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, mà Thầy gọi là “phân phái ngọn”. Phần trong ngoặc kép này là Giác Dũng copy từ đoạn trên xuống, hy vọng không đi ngược lại với ý nghĩa của câu văn) là hợp lý thì một số vấn đề hoài nghi được đặt ra: Trong 2 bản Hán dịch của Ngài Chân Đế (1 người) đều không đề cập nhân vật Đại Thiên sau Phật nhập diệt 100 năm, nhưng tất cả 3 bản dịch đều đề cập đến nguyên nhân dẫn đến nội bộ Tăng già phân chia chính là do ‘5 việc’, nội dung và ý nghĩa của 5 việc này cũng chính là nội dung ý nghĩa của5 việc Đại Thiên. Thế thì vấn đề được đặt ra là:

-Nếu 5 việc sau là do Đại Thiên tạo, còn 5 việc trước do ai tạo ra ?

-Tại sao 2 sự kiện cách nhau đến 100 năm mà nội dung và ý nghĩa của vấn đề lại giống nhau ?

-Sự giống nhau đó có ý nghĩa gì?

-Nếu Thầy phủ nhận Đại Thiên không phải là tác giả của 5 việc sau Phật Niết bàn 100 năm, thì ít ra Thầy cũng phải lý giải nhân vật nào đã đưa ra 5 việc này chứ. Không thể chỉ có 5 việc mà không có người tạo việc. Chúng ta không thể giải quyết theo cách sợ nhà mình nhơ đem rác đổ ngoài đường.

- Câu trả lời của Giác Dũng :

Đáng ra Thầy không nên đưa câu : “Chúng ta không thể giải quyết theo cách sợ nhà mình nhơ đem rác đổ ngoài đường.” này vào đây vì nó không được nghiêm túc và cũng không giúp ích cho cuộc thảo luận của chúng ta. Đúng là khi gặp một trường hợp như thế chúng ta phải đưa ra nhiều giả thuyết như trên và có thể nhiều hơn nữa để giải quyết vấn đề. Câu Thầy ghi :”Không thể chỉ có 5 việc mà không có người tạo việc.” là đúng nhưng không thể đơn giản nói là tìm được tác gỉa của 5 việc đâu thưa Thầy. Thí dụ các câu ca dao tục ngữ của Việt Nam, rõ ràng phải có tác gỉa nhưng bây giờ kêu nghiên cứu để đi tìm tác gỉa của ca dao tục ngữ Việt Nam thì tôi thấy không đơn giản.

4Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

“Trở lại vấn đề, còn lại bản dịch của Tây Tạng mà Thầy Giác Dũng đã đưa ra trong bài phê bình của mình, với tôi đây là một tư liệu mới, tôi sẽ nghiêm túc nghiên cứu tư liệu này. Trong đó, điểm đặc biệt mà tôi chú ý là vấn đề niên đạicủa các sự kiện lịch sử, nó không khác bản Hán dịch, nhất là bản dịch của Chân Đế cũng ghi sự kiện tranh cãi về 5 việc xảy ra vào năm 100 năm sau Phật Niết bàn, và 200 năm sau Phật Niết bàn lại xảy ra sự tranh cãi về 5 việc do Đại Thiên tạo ra, đồng thời sự kiện xuất hiện vua A dục cũng vào sau năm 100 năm. Những sử liệu được ghi lại trong dịch bản này cũng khác với những gì mà các học giả thường trích dẫn từ bản dịch của Tạng ngữ. Như Lamotte và Andre Bareau đã trích dẫn. Như vậy, phải chăng Tạng ngữ có hai dịch bản? Để trả lời cho câu hỏi này, hiện tại trong tay tôi có một bản dịch khác với bản của Thầy đã đề cập. Bản này có tựa đề là: “Dhe-a Tha-Dad-par Byed-pa Dan Rnam-par-bCad-pa” vốn được dịch từ Phạn văn: “Nikayabheda-vibhangavyŒkhyŒna”, sau đó được 2 người Nhật tên là 寺本婉雅平松友嗣dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Nhật và chú thích, với tựa đề là “Dị Bộ Tông Tinh Thích” (異部宗精釋)[2]. Điều làm tôi ngạc nhiên là tạo sao thầy đi học ở Nhật lại học ngành Phật học mà không biết bản dịch này?”

- Câu trả lời của Giác Dũng :

Thưa Thầy, câu : “Điều làm tôi ngạc nhiên là tạo sao thầy đi học ở Nhật lại học ngành Phật học mà không biết bản dịch này?”này cũng không nghiêm túc. Lần sau xin Thầy đừng hỏi như vậy nữa nếu Thầy thật tâm muốn thảo luận một vấn đề mang tính học thuật. Câu này có cùng một nội dung với câu trả lời số 2 của tôi, tôi xin lập lại, trong phần giới thiệu một dịch bản bằng tiếng Tây Tạng và ba dịch bản Hán văn của hệ thống Dị Bộ Tôn Luân Luận thì phần dịch bản bằng tiếng Tây Tạng bây giờ chắc Thây đã có tư liệu trong tay, vậy Thầy đã quyết định giới thiệu dịch bản nào chưa ạ?

Hôm nay tôi tạm dừng ở đây. Chúng ta thảo luận ngắn gọn nếu tườntg tận, thấu đáo được vấn đề rồi thì chúng ta sẽ sang phần khác. Trong bức thư Thầy gởi cho tôi, còn nhiều điều tôi cần thảo luận trao đổi với Thầy nhưng chúng ta có thể làm từ từ để vừa đọc, vừa còn có thời giờ suy ngẫm.

Chúc Thầy vạn an./.

KT, 19/1/2008

Giác dũng



[1]Hạnh Bình, “Nghiên Cứu về 5 việc của Đại Thiên”, NXB Tôn Giáo Hà Nội năm 2006, trang 17~18.

[2]寺本婉雅等編譯註《異部宗精釋》(Rất tiếc, bản dịch này là bản photo lại của 1 người bạn tặng, không thấy nhà XB và năm xuất bản).

----o0o---

Xem thư trả lời của Thích Hạnh Bình

----o0o---

Trình bày: Vĩnh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2024(Xem: 1301)
“Thật-giả” nghe có vẻ như lẫn lộn và khó phân biệt nhưng không phải vậy, nó chỉ khó phân biệt khi chúng ta chỉ mới nhìn thoáng qua mà chưa có thời gian tiếp cận và thử thách, một khi đã có dấu chân của thời gian cùng với sự nhìn nhận từ vô số con người thì thật giả đều sẽ bị phơi bày, dù là sự ngụy trang tinh xảo nhất, thế nên người chân tu sẽ không bao giờ phải sợ hãi trước bất kỳ điều gì, họ sẽ luôn bình thản đón nhận mọi sóng gió, thị phi, bởi họ có tâm bồ đề kiên cố, có như vậy họ mới là thạch trụ minh sư soi sáng cho tầng tầng lớp lớp phật tử đi theo. Ngược lại, người chưa có tâm tu hành thật sự sẽ dễ dàng bị chao đảo trước những làn sóng thị phi, họ sẽ cất công tìm mọi cách che chắn cho mình rồi từ đó lại có những hành động nhất thời làm mất đi hình ảnh, mất đi sự uy nghiêm, vững chãi.
08/03/2024(Xem: 721)
Chúng ta sinh ra làm người đã là khó, xuất gia lại càng khó hơn. Nhưng xuất gia rồi lại được học Phật, học Phật rồi lại được chiêm nghiệm lời Phật dạy và sau khi chiêm nghiệm lời Phật dạy rồi, thấy pháp học này, pháp hành này thích ứng với chúng ta và chúng ta đưa pháp học, pháp hành đó ứng dụng vào trong đời sống của chúng ta lại là rất khó. Và khó hơn nữa là chúngta ứng dụng pháp học pháp hành ấy vào trong đời sống chúng ta mà dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu trong tâm thức ta hoàn toàn lắng yên, tịch lặng, khiến cho hết thảy điều ác từ nơi thân khẩu ý không còn có điều kiện để biểu hiện, khiến cho tất cả những điều thiện luôn luôn biểu hiện nơi thân ngữ ý của chúng ta lại là rất khó. Và khó hơn nữa, là chúng ta luôn luôn giữ tâm ý thanh tịnh đúng như lời Phật dạy, đó là thiên nan vạn nan trong đời sống tu học của chúng ta
23/02/2024(Xem: 525)
Tôi viết bài này với tư cách là một tu sĩ Phật giáo cấp cao người Mỹ gốc Do Thái, người đã cực kỳ đau khổ trước cuộc tấn công quân sự của Israel vào người dân Gaza. Tôi nhìn thấy chiến dịch này có lẽ là cuộc khủng hoảng đạo đức bi thảm nhất trong thời đại chúng ta. Những trận bom dữ dội, số người chết tăng không ngừng, cuộc phong tỏa chết chóc đối với những nhu yếu phẩm thiết yếu, trận hủy diệt sinh mạng của những người vô tội - tất cả những sự kiện này đốt cháy ý thức đạo đức như một bàn ủi nóng đỏ và đòi hỏi một tiếng hét lớn từ sâu thẳm tâm hồn: “Trời ơi, hãy dừng lại đi!” Thực vậy, với giọng điệu kín đáo của mình, Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice) đã đưa ra một tiếng hét như vậy, nhưng nó như dường đã bị rơi bỏ đối với những tai điếc.
25/07/2023(Xem: 1635)
Trong số những lý do Tổng thống Nga Vladimir Putin viện dẫn, qua diễn văn dài trên đài phát thanh truyền hình Nga chiều tối ngày 21 tháng 2 năm 2022 để chuẩn bị và biện minh cho cuộc tấn công vào Ukraine từ ngày 24 tháng 2 năm 2022, ngoài những lý do chính trị và quân sự, còn có lý do tôn giáo, gọi là để “bênh vực Giáo hội Chính thống Nga tại Ukraine bị chế độ của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy áp bức”.
14/04/2023(Xem: 4161)
Xưa nay ngoài chư Tăng đắp y vàng, tín đồ phật tử chỉ mặc áo tràng, khất sĩ gọi là áo giới để phân biệt tôn ti.Người Tàu có nhóm đạo tràng cho cư sĩ đắp y nâu, cũng thâm nhập vào Việt Nam, nhưng chưa phổ biến trong các chùa. Giờ đây lại xuất hiện một nữ cư sĩ đắp y vàng, vài ba vị nam cạo đầu đắp y ngồi làm Duy na duyệt chúng trong buổi lễ do vị nữ cư sĩ đắp y vàng làm chủ lễ. Mọi người tôn xưng là sư phụ; xuất hiện tại một ngôi chùa tại miền Bắc Trung Việt.
25/02/2023(Xem: 1375)
Giá trị của một Tôn giáo, không chỉ nhìn vào số lượng tín đồ, nhìn vào cơ cấu tổ chức hay vào mức độ phát triển,thậm chí thời gian tồn tại. Mỗi Tôn giáo có một quy luật, một giáo chế để củng cố tổ chức; giới luật dành cho tu sĩ càng khắc khe,thì thân hành càng hiển lộ uy đức, phước tướng càng phát sanh.
03/11/2021(Xem: 3768)
Đoạn tuyệt với Facebook để vun xới tình người Facebook do Mark Zuckerberg sáng lập năm 2004 khi đang theo học năm thứ hai Đại học Harvard. Zuckerberg ra mắt Công ty Facebook năm 2012 ở vai trò Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành và trở thành tỉ phú trẻ tuổi nhất thế giới được nằm trong danh sách 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất toàn cầu. Facebook hiện có 2.7 tỷ người tham gia. The Forbes xếp Mark Zuckerberg hạng 5 trong tốp 10 tỉ phú hàng đầu với tổng số tài sản lên tới 97 tỷ USD.
16/06/2021(Xem: 12892)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
26/04/2021(Xem: 4482)
Dịch Covid-19 "càn quét" Ấn Độ khiến quốc gia Nam Á rơi vào tình trạng nghiêm trọng, với cảnh các bệnh viện không còn giường trống và thi thể xếp hàng dài trước các cơ sở hỏa táng.
16/04/2021(Xem: 5059)
Từ chuyện bộ phận có trách nhiệm, một vài địa phương đưa ra yêu cầu những ai muốn khai tôn giáo là Phật giáo trong thủ tục Căn Cước Công Dân (CCCD), phải có giấy chứng nhận là tín đồ mới được chấp nhận. Đây là một chuyện lạ gây ra nhiều thắc mắc trong giới Phật tử, vì từ trước đến nay chưa thấy xảy ra. Ngay cả trong thời gian còn nhiều lo toan, từng bước ổn định và hoàn thiện bộ máy hành chính và quản lý nội chính sau năm 1975, điều này vẫn chưa xảy ra. Nếu ai đến khai vào mục tôn giáo là không tôn giáo hay có tôn giáo là Phật giáo, thì bộ phận chuyên trách vẫn ghi vào theo lời khai ấy. Thí dụ người viết bài này làm thủ tục xin cấp Chứng Minh Nhân Dân (CMND) tại Sở Công An TP.HCM (ảnh 1-xem biên nhận), ngày 16/05/1978, tôi vẫn ghi rõ ràng tôn giáo là Phật giáo mà không ai làm khó dễ gì. Thời gian sau đó sau một vài lần cấp mới, gần nhất là ngày 26/03/2011 làm lại, tôi vẫn ghi Tôn giáo Phật đàng hoàng (ảnh) mà vẫn không thấy có một cản ngại nào. Đó mới là chuyện bình thường (ảnh 2-
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567