Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suy nghĩ về một bộ Kinh Thánh Phật giáo

08/04/201312:44(Xem: 4207)
Suy nghĩ về một bộ Kinh Thánh Phật giáo

Suy nghĩ về một bộ kinh thánh Phật giáo

Thích Nhật Từ

[email protected]

--o0o--

I. Nhu cầu của một bộ kinh thánh Phật giáo:

những dấu hiệu đáng mừng và những điều lo ngại

Hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều có kinh thánh riêng và được sử dụng thống nhất trên toàn thế giới. Riêng Phật giáo cho đến ngày hôm nay, do vì có nhiều tông phái và hệ phái, với số lượng kinh sách quá phong phú lên đến hàng trăm tập, vẫn chưa có một bộ kinh thánh thống nhất nào cả. Đó là điều mà khi nghĩ đến người Phật tử có tâm huyết phải cảm thấy buồn tủi và đau lòng.

Tại Việt Nam, kể từ khi quý hòa thượng Thích Trí Tịnh, Thích Trí Quang, Thích Thanh Từ, Thích Thiện Siêu, thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, thầy Đoàn Trung Còn phiên dịch một số kinh điển quan trọng của Phật giáo đại thừa và A-hàm từ chữ Hán ra chữ Việt; hòa thượng Thích Minh Châu, hòa thượng Giới Nghiêm phiên dịch kinh tạng nguyên thủy từ chữ Pali, chúng ta tạm có đủ các kinh điển quan trọng của hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông.

Điều đáng mừng nhất là chỉ trong vòng gần 30 năm, toàn bộ 4 bộ Nikaya đầu và vài tập của Tiểu bộ Kinh đã được hòa thượng Thích Minh Châu phiên dịch ra tiếng Việt. Các tập tiểu bộ kinh còn lại đang được các thành viên của viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tiếp tục phiên dịch. Các tập luận và luật tạng Pali cũng đã được cố hòa thượng Giới Nghiêm và quý sư Nam tông dịch và ấn hành trong những năm gần đây. Như vậy, trên căn bản, ba kho tàng kinh điển Pali đã được dịch ra tiếng Việt và ấn hành. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho việc truyền bá kinh điển Phật giáo bằng tiếng Việt tại nước Việt Nam.

Bên cạnh những điều đáng mừng đó vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Thứ nhất, giá phát hành của các kinh nêu trên quá cao, vượt ngoài khả năng mua của những gia đình Phật tử có mức sống trung bình. Khổ của các kinh chưa được nhất quán và thiếu tiêu chuẩn. Chất lượng giấy in quá kém, kỷ thuật thâu kết không đạt yêu cầu, khó có thể giữ lâu. Cách phân loại của đại tạng kinh Việt Nam không được rõ ràng, không theo tiêu chuẩn quốc tế, gáy sách không có ghi tên các bộ kinh (chẳng hạn như Trường bộ kinh, Trung bộ kinh v.v…) và do đó có thể gây nhiều khó khăn cho người Phật tử trong việc học hỏi và nghiên cứu kinh điển. Văn phong bản dịch của đại tạng kinh Việt Nam còn quá nặng về ngôn ngữ chữ Hán, khó hiểu đối với quần chúng Phật tử, kể cả những người biết chữ hán. Kế đến, về góc độ nghiên cứu, các kinh điển trong đại tạng kinh Việt nam thiếu hẳn phần chú thích (cước chú hay hậu chú), các chỉ mục tham khảo (index) về thuật ngữ, nhân danh, địa danh và tên kinh ở phần cuối của mỗi tập kinh. Đại tạng kinh Việt Nam thiếu hẳn tập tổng mục lục, tập hướng dẫn sử dụng và tự điển tra khảo, đối chiếu các thuật ngữ.

Điều đáng buồn nhất là với nỗ lực của các vị cao tăng và nhân sĩ Phật giáo trong việc phiên dịch, xuất bản các kinh điển Phật giáo bằng tiếng Việt, số lượng người mua và đọc các dịch phẩm ấy thật là ít ỏi và không đáng kể. Theo chúng tôi được biết mỗi kỳ ấn hành của các tập đại tạng kinh không quá 5000 bản, ấy thế mà có nhiều tập kinh được ấn hành gần 10 năm mà vẫn chưa phát hành hết. Điều đáng nói hơn nữa, cho đến hiện nay hầu hết các chùa và tịnh xá trong các tỉnh thành lớn đều không có một bộ đại tạng kinh Việt Nam trong thư viện hay tủ sách của chùa mình, nói chi đến các chùa và tự viện ở các tỉnh xa xôi và hẻo lánh, và nhất là các gia đình Phật tử khó khăn về kinh tế. Điều này đã dẫn đến một thực trạng là nhiều tăng ni và Phật tử không hề đọc qua đại tạng kinh Việt Nam. Có nhiều Phật tử còn không biết đến ba tạng kinh điển Phật giáo là gì. Cũng có nhiều người còn không biết đến lịch sử của đức Phật Thích-ca, người đã khai sáng ra đạo Phật. Nhiều người tuy đi chùa lễ Phật tụng kinh nhưng lại không hiểu các giáo pháp căn bản của đức Phật. Có nhiều lý do dẫn đến thực trạng đau lòng đó, mà một trong các nguyên nhân quan trọng là các kinh điển Phật giáo phần lớn không được dịch ra tiếng Việt. Các nghi thức tụng niệm ở các chùa tại Việt Nam cũng như hải ngoại phần lớn để nguyên âm vận chữ Hán, hoặc nếu được dịch ra tiếng Việt thì văn phong cầu kỳ, khó hiểu và quá nặng chữ Hán. Trong khi đó, đại tạng kinh Việt Nam lại không được phổ biến trong quần chúng, không được đưa vào tụng niệm trong các thời khóa hằng ngày. Dần dà kinh điển Phật giáo chỉ được cất giữ trong các thư viện cổ kính, mà ít ai quan tâm đọc đến, huống là đem ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Thật là uổng phí biết bao!

Để tạo điều kiện giúp cho quần chúng Phật tử hiểu rõ lời Phật dạy, chúng tôi nghĩ rằng việc thành lập một bộ kinh thánh Phật giáo giản lược là rất cần thiết. Một bộ kinh thánh giản lược chỉ cần chứa đựng trong vòng 2500 trang, tóm thâu tất cả những lời dạy cao qúy và căn bản của đức Phật trong hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Bộ kinh thánh này nên được ấn tống rộng rãi, để mỗi chùa và từng gia đình Phật tử đều có và đọc được. Được như vậy thì thông điệp từ bi, trí tuệ và giải thoát của đức Phật sẽ chiếu sáng trên mọi góc đường, trong đời sống, tư duy và hành động của người Việt Nam.

II. Các khó khăn về việc hình thành

một bộ kinh thánh Phật giáo

Mặc dù đã và đang có nhiều nỗ lực của các giáo hội, tổ chức và cá nhân Phật giáo trong việc phiên dịch kinh điển Pali và Sanskrit ra tiếng Mẹ đẻ, việc hình thành một bộ kinh thánh Phật giáo cho từng gia đình không phải không gặp nhiều khó khăn. Có những trở ngại mang tính khách quan như sau.

Thứ nhất, ba kho tàng văn học Phật giáo (tam tạng kinh điển) được viết bằng hai hệ ngôn ngữ chính: hệ Pali và hệ Sanskrit. Hệ Pali chỉ được phát triển và truyền thừa ở các nước theo Phật giáo nguyên thủy. Trong khi đó, hệ Sanskrit lại được phát triển ở các nước theo Phật giáo Bắc tông, nhưng lại không còn đủ trọn bộ. Kế đến, kinh điển đại thừa lại được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó quan trọng nhất là tiếng Tây Tạng và Trung Quốc. Hai thứ tiếng này lại là một trở ngại rất lớn cho người muốn tìm hiểu vì sự khó học, khó nhớ của nó.

Thứ hai là, khác với các kinh thánh của các tôn giáo khác như kinh thánh của Ky-tô giáo hay Koran của Hồi giáo, kinh thánh Phật giáo, dù là hệ Pali, là cả một kho tàng gồm nhiều tập, lên tới nhiều ngàn trang giấy khổ lớn. Riêng ba kho tàng kinh điển Pali thôi cũng đã lên tới gần 60 đầu sách. Mỗi quyển chứa trung bình từ 250 đến 400 trang. Kinh điển đại thừa lại còn nhiều hơn nữa. Chính vì thế, việc ấn hành một bộ kinh thánh Phật giáo khó được thực hiện.

Hơn thế nữa, do "ngôn ngữ tự điển" của các bản dịch, kinh điển Phật giáo chỉ trở nên quen thuộc trong giới học giả. Giới quần chúng thông thường lại không có cơ hội để tiếp xúc với kinh điển.

Đó là chưa nói đến các khó khăn về tài chánh in ấn và phổ biến. Các trở ngại này đã làm cho kinh điển Phật giáo trở thành các thư viện nghiên cứu của một số đối tượng, thay vì là của toàn thể quần chúng, từ bình dân đến trí thức. Tuy nhiên các khó khăn đó không phải là không thể khắc phục được, nếu chúng ta nhìn vấn đề từ góc độ duyên khởi: cái này có do cái kia có; cái này không có kéo theo cái kia không có. Do đó, nếu chúng ta tăng cường các trợ duyên, phương tiện và nỗ lực chất xám của nhiều người thì công việc trên sẽ có thể có một lối mở thích đáng.

III. Nội dung cần có của một bộ kinh thánh Phật giáo

Vì đạo Phật có 2 hai nhánh chính là Phật giáo nguyên thủy và đại thừa nên tuyển tập kinh thánh Phật giáo nên chứa đựng cả 2 nguồn kinh điển tiêu biểu của hai tông phái chính. Trên tinh thần đó, nên có 2 tuyển tập kinh thánh Phật giáo: một tuyển tập của kinh điển hệ Pali nguyên thủy và một tuyển tập của hệ Sanskrit đại thừa.

Đối với tuyển tập kinh thánh nguyên thủy

1. Tạng giới luật nên được tỉnh lược tối đa. Chỉ nên giữ lại phần cốt lỏi Đại Phẩm (Mahavagga) và Tiểu Phẩm (Cullavagga). Các phần còn lại của tạng Luật không nên giới thiệu trong tuyển tập kinh thánh . Bởi lẽ các phần đó liên hệ thuần túy đến các điều khoảng, cách trị phạt, hệ thống tổ chức đời sống cộng đồng của người xuất gia; không có lợi ích nhiều cho người Phật tử tại gia. Kế giới giáo pháp của Phật không được chứa tải nhiều trong các phần giới luật này.

2. Không kèm tạng Luận trong tuyển tập kinh thánh . Bởi lẽ, ngôn ngữ của tạng Luận tuy sâu sắc nhưng khó hiểu với cách lý luận, mang phong cách phân tích nặng về triết học ngôn ngữ, nên không cần thiết cho giới Phật tử bình dân. Do đó không cần thiết giới thiệu vào trong bộ kinh thánh Phật giáo.

3. Chỉ tuyển chọn các kinh quan trọng trong 4 bộ Nikaya đầu bao gồm tuyển tập các bài kinh dài (Trường Bộ kinh), tuyển tập các bài kinh trung bình (Trung bộ kinh), tuyển tập các bài kinh theo chủ đề (Tương ưng bộ kinh) và tuyển tập các bài kinh theo pháp số (tăng chi bộ kinh).

4. Về 15 tuyển tập thuộc Tiểu bộ kinh, chỉ nên tuyển chọn các phần tinh hoa trong 5 bộ đầu. Riêng kinh Pháp Cú thì nên giữ nguyên toàn bộ 423 bài kệ, vì tính cô đọng và bao quát giáo pháp Phật của nó. Mười bộ từ thứ sáu trở đi nên được tỉnh lược.

Như vậy với cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Nguyên thủy sẽ chiếm khoảng 1000 trang giấy, rất tiện lợi cho việc mang đi đây đó, thọ trì, đọc tụng và phổ biến.

Đối với tuyển tập kinh thánh đại thừa

1. Về giới Bồ-tát, chỉ giới thiệu phần nội dung của 10 giới nặng và 48 giới nhẹ. Tỉnh lược toàn bộ phần dẫn nhập về nhân địa bồ-tát.

2. Toàn bộ phần Mật tạng và luận tạng nên được tỉnh lược, vì quá nhiều và không cần thiết cho đại đa số quần chúng.

3. Đối với các kinh điển đại thừa, cũng nên chọn lọc các kinh tiêu biểu mà thôi. Các kinh đại thừa nên được giới thiệu là: kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Lăng Già, kinh Viên Giác, kinh Pháp Hoa, Kinh Duy-ma-cật sở thuyết, kinh Đại Bảo Tích, kinh Bát-nhã, Kinh báo ân cha mẹ, Kinh Vu-lan. Riêng kinh Năng Đoạn Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật thì giữ trọn vẹn. Không nên giới thiệu các kinh Dược Sư, Địa Tạng và các kinh thần chú, vì tính chất van xin và cầu nguyện trong các kinh này đã đi ngược lại vơi với tinh thần lời dạy nguyên thủy của đức Phật.

4. Đối với các kinh đại thừa vừa nêu trên, cũng nên tuyển chọn các phẩm kinh tiêu biểu chứ không cần giới thiệu toàn bộ các phẩm trong kinh.

Với cách chọn lọc này, bộ kinh thánh Đại thừa sẽ chiếm khoảng 1000 đến 1500 trang giấy.

Như vậy cả hai bộ kinh thánh Phật giáo nguyên thủy và đại thừa gộp lại sẽ chiếm khoảng 2000-2500 trang giấy. Nếu in trên giấy mỏng và tốt thì bộ kinh thánh chỉ cần chứa trong 2 tập, tập 1 là kinh thánh nguyên thủy và tập 2 là kinh thánh đại thừa. Tuy nhiên cách phân bổ số tập cũng có thể linh động, bằng cách chia đều mỗi tập 500 trang. Như vậy có tất cả là 5 tập, tập 1 và 2 thuộc kinh thánh nguyên thủy và 3 tập còn lại thuộc kinh thánh đại thừa. Nếu tính luôn bản nguyên tác Pali và Sanskrit thì số lượng tập của bộ kinh thánh Phật giáo có thể tăng lên gấp đôi.

IV. Phương cách trình bày bộ kinh thánh Phật giáo

1. Cả hai tuyển tập kinh thánh nên được trình bày theo một trật tự từ thấp đến cao, từ nhân thừa đến Phật thừa. Không nên trình bày theo cấu trúc truyền thống là kinh luật luận, vì hai kho tàng luật luận đã được tỉnh lược khỏi tuyển tập kinh thánh này.

2. Nên đặt lại tựa đề của các bài kinh (trong trường hợp kinh điển Pali), các phẩm kinh (trong trường hợp kinh điển đại thừa), theo nội dung và chủ để của chúng. Tuy nhiên phải ghi chú tên nguyên gốc để giúp người đọc có thể đối chiếu khi cần thiết.

3. Đánh số thứ tự lại trật tự của các bài kinh, số đoạn một cách có hệ thống để tiện cho việc tham khảo dọc. Số thứ tự được đánh theo từng bài kinh. Sang bài kinh khác thì số thứ tự được đánh lại từ đầu. Ví dụ đoạn thứ nhất của bài kinh thứ nhất được đánh số là 1: 1. Đoạn thứ ba của bài kinh thứ nhất được đánh số là 1: 3. Nếu chi tiết hơn, chúng ta có thể đánh dấu số trang cho chúng. Ví dụ nếu đoạn một của kinh thứ nhất đó nằm ở trang 3 thì ta ghi như sau: 1: 1 : 3. Tương tự nếu là đoạn thứ 3 của kinh thứ 2 thuộc trang 8 thì ta ghi như sau: 2 : 3 : 8.

4. Nên đặt chủ đề cho từng ý tưởng chính trong kinh. Các chủ đề chính được đánh dấu bằng một co chữ in lớn (ví dụ co 13) trong khi các ý tưởng nhỏ hay trực thuộc nên được đánh dấu bằng một co chữ in nhỏ hơn (ví dụ 11). Việc đặt chủ đề như trên sẽ giúp cho người đọc có được manh mối để ghi nhớ và suy tư lời Phật dạy trong khi tụng niệm.

5. Đối với các kinh nguyên thủy, nên tỉnh lược các đoạn trùng lập (vốn chỉ có giá trị trong truyền thống truyền miệng) bằng các ký hiệu mặc ước (ví dụ […]) để ý tứ của mạch văn được cô đọng và rõ ràng hơn. Ngoài ra, việc tỉnh lược này còn giúp tiết kiệm giấy mực hay nói khác hơn giảm bớt kinh phí ấn loát và phát hành.

6. Viết lại một cách ngắn gọn, cô đọng, đầy đủ nghĩa các đoạn mở đầu các bài kinh thành 1 hoặc 2 dòng, thay vì nửa trang giấy như nguyên tác. Miễn sao việc tỉnh lược đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến nội dung chính của kinh là được. Tuy nhiên cũng nên có các ký hiệu cho biết đây là đoạn đã được biên tập ngắn lại.

V. Phương pháp tổ chức biên soạn bộ kinh thánh PG

1. Để bộ kinh thánh Phật giáo được sử dụng thống nhất trên khắp thế giới, ngôn ngữ của kinh thánh này phải được thể hiện qua ba thứ tiếng căn bản là Pali, Sanskrit và tiếng Anh. Nói cách khác công việc biên tập trước nhất phải được tiến hành theo ngôn ngữ gốc của kinh điển. Đối với tuyển tập kinh thánh nguyên thủy, trước nhất phải được biên tập từ tiếng Pali. Đối với tuyển tập kinh thánh đại thừa, việc biên tập được thực hiện từ tiếng Sanskrit. Khi ấn bản la-tinh hóa của hai tuyển tập kinh thánh này hoàn tất, chúng ta tiến hành đến việc phiên dịch ra bản tiêu chuẩn tiếng Anh. Các nước Phật giáo trên khắp thế giới có thể tham khảo bản tiếng Anh trong khi phiên dịch hai ấn bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ của mình. Nói dễ hiểu hơn, phần kinh thánh nguyên thủy được trình bày qua tiếng Pali đã la-tinh hóa, trong khi phần kinh thánh đại thừa được trình bày qua tiếng Sanskrit, như chính nguyên tác ngôn ngữ của chúng. Ấn bản tiếng Anh đính kèm là bản tham khảo đối chiếu cho các bản dịch ra tiếng mẹ đẻ của các dân tộc trên thế giới. Riêng chúng ta là người Việt Nam, thì bộ kinh thánh Phật giáo bao gồm 2 ấn bản, ấn bản nguyên gốc Pali và Sanskrit và ấn bản tiếng Việt. Ấn bản nguyên gốc để nhằm vào mục đích tra cứu, tham khảo nguyên tác. Ấn bản tiếng Việt là ấn bản chính mà các chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường và các gia đình Phật từ cần phải có ít nhất một bộ trong chùa hay trong nhà mình. Về lâu về dài, mỗi người con Phật dù tại gia hay xuất gia đều có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo đó.

2. Để thực hiện công việc biên tập trên, phải thành lập một ban biên tập gồm các vị cao tăng, danh tăng, cư sĩ có tâm huyết với Phật pháp và các học giả Phật giáo trên khắp thế giới. Thành viên của Ban biên tập này phải là những người đại diện cho tiếng nói của Phật giáo trong một nước. Do đó các thành viên phải là người được đề cử của giáo hội Phật giáo trong một nước hay của một tổ chức Phật giáo nào đó hay của các trường đại học Phật giáo nổi tiếng trên thế giới.

3. Trước nhất, số lượng bài kinh cũng như các kinh của hai truyền thống được tuyển chọn vào bộ kinh thánh Phật giáo phải được thảo luận rộng rãi. Các ý kiến đóng góp của quần chúng tăng ni Phật tử trên khắp thế giới phải được tham khảo và nghiên cứu kỷ lưỡng, để hoàn thiện nội dung của bộ kinh thánh Phật giáo. Sau khi thống nhất về các bài kinh được tuyển chọn, ban biên tập tiến hành công tác biên tập, theo các tiêu chí nêu ở mục IV.

4. Một khi văn bản nguyên tác Pali và Sanskrit đã được biên tập và hệ thống hóa, bản dịch tiếng Anh cần được tiến hành tiếp theo sau. Sau đó, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, để các ban biên tập và phiên dịch địa phương trong một nước nào đó tiến hành dịch ra tiếng mẹ đẻ của mình, chẳng hạn như tiếng Trung Quốc, Pháp, Đức, Nhật, Liên Xô, Miến Điện, Thái, Tích Lan v.v…

5. Văn phong của các bản dịch kinh thánh Phật giáo phải là một loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ của từng dân tộc và quốc gia. Phong cách ngôn ngữ dịch thuật tuy có nhiều loại tùy theo trình độ, sở thích và phong cách riêng của người dịch, có thể chia thành 2 dạng chính: dạng ngôn ngữ tự giải thích và dạng ngôn ngữ tự điển. Dạng thứ nhất là phong cách chuyển ngữ văn bản kinh điển gốc sang tiếng được chuyển ngữ theo một văn phong thuần chất của người bản địa. Nghĩa là tự bản thân các từ ngữ thuật ngữ được diễn tả đã mang tính giải thích rõ ràng. Người đọc kinh điển không cần phải tra cứu các bộ tự điển Phật học để tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Trái lại, dạng thứ hai là dạng sử dụng quá nhiều từ ngữ, thuật ngữ chuyên ngành Phật học, hoàn toàn xa lạ với quần chúng. Đây là loại văn dịch theo phong cách kinh viện, phải cần đến tự điển mới hiểu được ý nghĩa chứa đựng trong nó. Văn phong của bản dịch của kinh thánh Phật giáo phải là loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ, để giúp cho người Phật tử đọc hiểu dễ dàng và ứng dụng không trở ngại. Rõ ràng để có một văn phong như vậy, ban biên dịch của từng nước trên thế giới phải cần đến sự nhuận văn của các văn gia và thi sĩ lỗi lạc trong mỗi nước, trước khi bản dịch được đem đi in ấn.

6. Bản dịch từ bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ (hay tiếng địa phương) phải được các hội đồng đại diện của một nước phụ trách. Hội đồng đó có thể bao gồm các tu sĩ, cư sĩ và học giả Phật lỗi lạc và tinh thông Phật pháp trong một nước.

7. Để bộ kinh thánh Phật giáo này có trong tay từng tu viện và gia đình Phật tử, Ban biên tập có thể vận động các tổ chức từ thiện Phật giáo trên khắp thế giới ủng hộ phần kinh phí ấn tống bộ kinh thánh Phật giáo. Ngoài ra, các đại diện của một nước cũng nên vận động ấn tống hay phát hành bộ kinh thánh Phật giáo trên tinh thần không lời không lỗ, để bạn đọc Phật giáo có thể mua dễ dàng. Giá ấn bản, nếu không phải ấn tống, nên bằng với giá chi phí ấn loát thực tế. Có như vậy thì mỗi tăng ni và gia đình Phật tử đều có thể có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo để đọc tụng và thực hành lời Phật dạy ở mỗi nơi và mọi lúc.

VI. Thay lời kết

Những điều được trình bày bên trên chỉ là nguyện vọng của cá nhân chúng tôi trong việc mong mỏi có một bộ kinh thánh Phật giáo thống nhất trên khắp thế giới. Nguyện vọng tuy chánh đáng nhưng việc thực hiện không phải là chuyện dễ dàng. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng công việc cần thiết này không phải không thực hiện được. Chúng tôi mong sao các nhà lãnh đạo Phật giáo, các nhân văn trí thức Phật giáo trên khắp thế giới lưu tâm nhiều hơn về vấn đề này, để sớm có ngày ngồi lại bên nhau phát thảo công trình biên tập một bộ kinh thánh Phật giáo trong vòng 2500 trang. Những điểm cần thảo luận chi tiết cho công trình này là:

-- Những kinh điển nào cần được đưa vào trong bộ kinh thánh Phật giáo.

-- Những phần nào nên được tỉnh lược và loại ra khỏi bộ kinh thánh Phật giáo.

-- Phong cách trình bày lời Phật dạy một cách có hệ thống, từ thấp đến cao, để giúp cho người đọc dễ nhớ và ứng dụng vào trong cuộc sống.

-- Văn phong của bản dịch phải đơn giản, phổ thông và quen thuộc với ngôn ngữ đời sống hằng ngày của từng quốc gia và dân tộc trên thế giới.

Được như vậy, người viết tin chắc rằng lời Phật dạy sẽ được nhiều người biết đến, sự ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống sẽ có nhiều lợi ích hơn, và do đó, cuộc sống con người hôm nay và mai sau sẽ an lạc và hạnh phúc hơn trong ánh sáng chánh pháp của đức Phật.


Source: Buddhism Today

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2024(Xem: 165)
Nghi kỵ, chia rẻ, lòng tham đem lại bao khổ đau bởi chiến tranh, các Tôn giáo chưa đủ năng lực cảm hóa lòng người, mặc dù Tôn giáo có mặt trong nhân loại từ hàng ngàn năm qua, nhưng Tôn giáo vẫn còn khép kín trong phạm trù Tín ngưỡng, phục vụ tín lý, tôn sùng niềm tin, bỏ quên cộng đồng sinh hoạt xã hội.
20/12/2024(Xem: 699)
Đây là lần đầu tiên quý Huynh trưởng cao cấp của tổ chức GĐPT Việt Nam tại Hải ngoại có cơ hội tiếp cận, thăm hỏi với Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ. Cuộc hầu chuyện này xảy ra vào ngày 29 tháng 4, 2021 lúc 8:30PM trên hệ thống Zoom. Sau đó chúng tôi đã gởi đến toàn thể quý Ban Hướng Dẫn các cấp Hải Ngoại và Quốc Gia và những Huynh trưởng có thẩm quyền; sau một thời gian dài im lặng, chúng tôi, vì lợi ích chung của số đông và nhiều người cũng như để tưởng nhớ và biết ơn tình thương bao la của Thầy nói riêng và của Giáo Hội nói chung dành cho tổ chức GĐPT Việt Nam trong và ngoài nước, nên xin mạo muội chia sẻ chung cho đại chúng và quý hàng huynh trưởng các cấp, và xin tóm lược lại những ý chính của cuộc hầu chuyện và lời dặn dò của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ:
09/11/2024(Xem: 690)
Sự hiện diện Phật giáo Việt Nam tại Mỹ đã có hơn nửa thế kỷ, gắn liền với dòng chảy của lịch sử tỵ nạn và di dân sau chiến tranh và các biến cố chính trị. Trong suốt thời kỳ đầu, nhiều vị Tăng Ni đến Mỹ trong bối cảnh tị nạn, tuổi đã cao và gặp khó khăn trong việc hòa nhập vào xã hội mới do rào cản ngôn ngữ, văn hóa. Điều này đã dẫn đến một hình thức hoằng pháp tập trung chủ yếu vào cộng đồng người Việt. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, nhiều Tăng Ni trẻ đến từ Việt Nam và Ấn Độ thông qua các chương trình du học thậm chí có những vị có học vị tiến sĩ, và qua chương trình định cư Mỹ bằng visa tôn giáo EB-4. Những vị này đến Mỹ với một nền tảng học thuật và sứ mệnh hoằng pháp cho mọi chúng sinh, nhưng thực tế họ lại dường như bị lôi cuốn vào việc xây dựng chùa to, tượng lớn mà lãng quên trọng trách xiển dương Phật pháp đến cộng đồng người bản xứ.
03/11/2024(Xem: 490)
Gia đình Phật tử cần cái Dũng ở mỗi một Huynh trưởng. Nguyên Vinh-Nguyễn Ngọc Mùi.
03/11/2024(Xem: 483)
Trong tổ chức Gia Đình Phật Tử, vai trò và trách nhiệm của các thành viên chủ chốt như Tổng thư ký, Phó Trưởng Ban Điều Hành và Chủ tọa có thể được phân định rõ ràng để bảo đảm buổi họp diễn ra suôn sẻ và hiệu quả. Dưới đây là chi tiết về vai trò và trách nhiệm của từng vị trí.
03/11/2024(Xem: 476)
Trại Huấn Luyện Huynh Trưởng Cấp III – Vạn Hạnh là cấp trại huấn luyện cao nhất trong tổ chức Gia Đình Phật Tử (GĐPT), với mục đích đào tạo những Huynh Trưởng đầy đủ tài và đức để tiếp nối truyền thống di sản và lãnh đạo tổ chức trong tương lai. Các Huynh Trưởng tham dự trại này không chỉ là những người đã gắn bó với GĐPT từ thuở nhỏ, từ Oanh Vũ đến ngành Thiếu, ngành Thanh, và đã trải qua các trại huấn luyện cấp I và cấp II, mà còn là những cá nhân đã khẳng định phẩm chất, năng lực và sự hy hiến của mình cho tổ chức qua nhiều năm tháng sinh hoạt. Do đó, thành phần Ban Quản Trại cho trại Vạn Hạnh cần được chọn lựa kỹ lưỡng để bảo đảm chất lượng truyền thừa tốt nhất có thể, đúng với tinh thần và tôn chỉ của tổ chức.
03/11/2024(Xem: 526)
Câu chuyện tự do ngôn luận dẫn đến cuồng ngôn dường như vẫn là một câu chuyện dài với những cá nhân ảo tưởng sức mạnh quyền lực trên không gian mạng, kèm theo đó là một tâm lý bất ổn, thậm chí không được bình thường, nếu không có sự can thiệp kịp thời và một đời sống tinh thần an ổn. Ngày 01/11/2024, trên mạng xã hội xuất hiện một đoạn video clip phát ngôn của bà Nguyễn Phương Hằng với những lời lẽ nặng nề, thô thiển nhằm công kích và xúc phạm nhắm vào công dân Lê Anh Tú (còn gọi là sư Thích Minh Tuệ) và nhiều người khác, với khẩu khí hằn học đầy tính sân si, bà Nguyễn Phương Hằng dùng những ngôn từ như “mày, tao” khi nhắc về sư Minh Tuệ, sau đó, bà quy kết sư Minh Tuệ bằng lối lập luận vô cùng thiển cận, phàm phu, mang quan điểm cá nhân, thiếu hiểu biết để chà đạp danh dự, nhân phẩm người khác.
02/11/2024(Xem: 525)
Gia Đình Phật Tử là một tổ chức bất vụ lợi được xây dựng dựa trên tinh thần tự nguyện và tự giác của các thành viên. Mục tiêu chính của tổ chức là “Đào tạo thanh thiếu đồng niên trở thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo.” Sứ mệnh này không chỉ giúp các thế hệ trẻ hình thành nhân cách tốt đẹp mà còn lan tỏa giá trị của Phật pháp vào cộng đồng và xã hội rộng lớn hơn.
02/11/2024(Xem: 453)
Khái niệm “Thế giới phẳng” của Thomas Friedman nhấn mạnh sự kết nối toàn cầu nhờ những tiến bộ công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực điện toán và trí tuệ nhân tạo (AI). Điều này tạo ra cả thách thức và cơ hội cho các tổ chức như Gia Đình Phật Tử (GĐPT) khi thực hiện sứ mệnh của mình trong bối cảnh toàn cầu hóa. Để GĐPT phát triển và duy trì tính phù hợp trước những thay đổi nhanh chóng của công nghệ, điều quan trọng là phải có một tầm nhìn xa và một cách tiếp cận thực tế về cách tổ chức để Ban Hướng Dẫn Gia Đình Ph ật Tử Việt Nam trên Thế Giới(G ĐPTVNTTG) có thể đối mặt với thách thức này:
01/11/2024(Xem: 382)
Việc thành lập Hội Đồng Quản Trị Huynh Trưởng trong Gia Đình Phật Tử (GĐPT) là một sáng kiến chiến lược nhằm duy trì các tiêu chuẩn cao về lãnh đạo, đạo đức, và sự trong sạch của tổ chức. Hội đồng này, gồm những anh chị huynh trưởng mẫu mực và chí công vô tư, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng tổ chức luôn tuân thủ các giá trị cốt lõi và mục tiêu dài hạn của mình. Bài tiểu luận này sẽ khám phá vai trò, trách nhiệm, quyền hạn, và tính độc lập của hội đồng, nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong GĐPT.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]