Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thảo luận về Đại Thiên (1)

08/04/201312:40(Xem: 6844)
Thảo luận về Đại Thiên (1)

Thảo luận về Đại Thiên (1)

Giác Dũng

Thân gởi Thầy Hạnh Bình, Tôi đã đọc được lá thơ của Thầy gởi cho Sư Chánh Minh và tôi trên trang Nhà Quảng Đức, www.quangduc.com. Xin chân thành cám ơn Thầy. Tôi nghĩ đây là cơ hội tốt để chúng ta thảo luận về một vấn đề có liên quan đến Phật giáo, hoàn toàn không mang tính hơn thua. Xin Thầy cùng chia xẻ với tôi quan điểm như vậy. Bây giờ không cần mất thời giờ, tôi xin đi vào từng câu trả lời cụ thể đối với lá thơ mà Thầy gởi cho tôi.

1Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

“Thứ 6, Lời phê bình về cách nhận định tư liệu của tác giả.

Thầy Giác Dũng trích dẫn nguyên văn trong tác phẩm NC5VĐT:

“9 bộ phái này, tất nhiên mỗi phái đều có lập trường và quan điểm đặc thù của riêng mình, nhưng với nguồn tư liệu hiện có trong Phật giáo, đề cập đến quan điểm tư tưởng của 9 bộ phái này thật là hiếm hoi, có thể nói là không có.”(trích từNC5VĐT trang 147).

Từ đó dẫn đến lời phê bình:

một lần nữa, tác giảcủa Nghiên cứu đã tỏ ra quá ư là cẩu thả và lười biếng trong nghiên cứu. “Kinh Tăng nhứt a hàm”, “Ma ha tăng kỳ luật” rõ ràng thuộc Đại chúng bộ. Tại sao lại nói là không có? Chẳng lẽ trong hai tác phẩm đồ sộ thế kia lại không tìm ra được tư tưởng của Đại chúng bộ ?”.

Thật ra, đoạn trênđược trình bày trong Chương V của tác phẩm NC5VĐT, với tựa đề ‘Từ tư tưởng của Đại thiên đến tư tưởng của các phái trong Đại chúng bộ’. Với tựa đề này, tác giả (HB) xem bản “Kinh Tăng Nhất A hàm” cũng như “Ma ha Tăng Kỳ Luật” là Kinh và Luật của Phật, quan điểm trong Kinh trong Luật đó là quan điểm của Phật dù nó được kiết tập thành văn tự, trước hay sau sự việc xảy ra 5 việc của Đại Thiên, do đó dĩ nhiên không thể có sự kiện vì 5 việc của Đại Thiên mà được đức Phật giải thích trong kinh hay trong luật này. Nếu có thể xảy ra, thì nó chỉ mang ý nghĩa, các Bộ phái của Đại chúng bộ căn cứ quan điểm trong Kinh trong Luật này để lý giải cho quan điểm của Bộ phái mình mà thôi. ”

-Câu trả lời của Giác Dũng :

Tôi đồng ý với Thầy là “Kinh Tăng Nhất A hàm” cũng như “Ma ha Tăng Kỳ Luật” là Kinh và Luật của đức Phật nhưng trong qúa trình biên tập, từ khẩu truyền cho tới sau khi được ghi thành văn tự đều có sự thêm vào hoặc cắt bớt một cách có ý thức. Tôi xin trích nguyên văn đoạn sau đây của Hòa Thượng Thích Minh Châu trong tác phẩm “So sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pàli” HT. Thích Minh Châu (1961), Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998) trên trang Nhà Quảng Đức http://www.quangduc.com/tacgia/thichminhchau.html

3. Sự kế thừa tổ vị :

Trong đồ biểu ở trang 18 của quyển sách nhan đề "Đại thừa (Mahàyàna) và sự liên hệ với Tiểu thừa (Hìnayàna)", Ma Ha Ca Diếp được xem là sơ tổ (àcariya) của Nhất thiết hữu bộ (Sarv.), Xá Lợi Phất Sàriputta được xem là sơ tổ (àcariya) của Thượng tọa bộ (Ther.). Dữ kiện này thêm vững chắc khi hai nhà Phật học Buston và Tàranàtha(31)cho chúng ta biết Ma Ha Ca Diếp (Mahàkassapa) giao phó sự lãnh đạo tăng già cho A Nan (Ànanda), trong khi Buddhaghosa(32)đưa ra một bản kê những luận sư (àcariyas) A tỳ đàm (Abhidhamma) khởi từ Xá Lợi Phất (Sàriputta). Chúng ta thấy trong kinh tạng chữ Hán (C. S.) số 26 rằng Xá Lợi Phất (C: Shê-li-tzu, P: Sàriputta) gọi Đại Ca Diếp (C: Ta-chia-yeh, P: Mahàkassapa) là Tôn giả (C: Tsun-che, P: Bhante), còn Đại Ca Diếp gọi Xá Lợi Phất là hiền giả (C: Hsien-che, P: Àvuso) (C số 184, vii, 35a, 10-11). Nhưng trong bản Pali, Xá Lợi Phất (Sàriputta) gọi Ma Ha Ca Diếp (Mahàkassapa) là hiền giả (Àøvuso) và Ma Ha Ca Diếp cũng gọi Xá Lợi Phất với danh xưng ấy (Àvuso). Sự khác nhau về danh từ xưng hô này, chứng tỏ kinh Trung a-hàm chữ Hàn (CMA) thuộc truyền thống Nhất thiết hữu bộ (Sarv.), một truyền thống tôn Ma Ha Ca Diếp (Mahàkassapa) làm sơ tổ, trong khi Trung bộ kinh Pali (PMN) thuộc truyền thống Thượng tọa bộ (Ther.) vốn xem Xá Lợi Phất là bậc thầy cao hơn cả Ma Ha Ca Diếp. Sự kiện này càng rõ rệt hơn khi ta thấy bản kinh Pali số 111, Anupadasutta, hoàn toàn bị gạt bỏ trong tất cả kinh A-hàm (Àgama),(33)vì trong kinh ấy đức Phật đã tán dương Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàriputta) như sau: (đoạn này khá dài nên người viết bài này không trích tiếp. Thầy có thể đọc tiếo trên mạng).

Như vậy, nếu như chấp nhận quan điểm của Thầy rằng “Đại Thiên là Tổ lãnh đạo Đại Chúng Bộ” thì chắc chắn với hai bộ vừa kinh và vừa luật đó, ít nhiều chúng ta cũng tìm thấy được một vài thêm thắt để nâng cao gía trị vị Tổ lãnh đạo của mình. Nếu như không tìm thấy một ghi chép hay một chỉ dẫn nào về nhân vật Đại Thiên trong Kinh Tăng Nhứt A Hàm và trong Luật Ma Ha Tăng Kỳ thì quan điểm cho rằng “Đại Thiên là Tổ lãnh đạo Đại Chúng Bộ” của Thầy cần xem lại.

(2)Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

“Thứ 8, Thầy Giác Dũng so sánh 4 bản dịch nhằm hủy bỏ nhân vật Đại Thiên sau Phật Niết bàn 100 năm.

Trong bài viết của mình Thầy Giác Dũng phê bình:

“…Hoàn toàn sai lầm. Một cách viết hết sức cẩu thả, không thể chấp nhận trong nghiên cứu! Như tôi sẽ trình bày cặn kẽ dưới đây, có sự khác nhau giữa bốn dịch bản này về nhân vật Đại Thiên và điều quan trọng hơn, chính sự khác nhau đó đã làm sụp đổ hoàn toàn giá trị của Nghiên cứu.” (trang….)

Căn cứ lời phê bình này, chúng ta thử tìm hiểu về phương pháp tìm tư liệu, phân tích và đánh giá tư liệu của Thầy, cũng như mục đích của nó như thế nào! Ngang qua công việc thực tế mà Thầy đã trình bày trong bài viết của mình, quả thật Thầy đã trích dịch 4 dịch bản khác nhau, cả bản Hán ngữ và Tạng ngữ. Theo sự sắp xếp thứ tự của Thầy, chúng ta thấy: 1. Bản Tây Tạng là “Gshung lugs kyi bye brag bkod pa'i 'khor lo”, do hai ngài: Dharmàkara và Bzang Skyong dịch từ Sanskrit sang tiếng Tây Tạng, 2. “Thập Bát Bộ Luận” (十八部論), do Ngài Chân Đế dịch, 3. “Bộ Chấp Dị Luận” (部執異論), cũng do Ngài Chân Đế dịch, 4. “Dị Bộ Tông Luân Luận” (異部宗輪論), do Ngài Huyền Trang dịch. Thầy (GD) cũng đã dịch 4 bản này sang Việt ngữ, đó là những đoạn có liên quan đến 5 việc và 5 việc của Đại Thiên. Đặc biệt, riêng bản Tây Tạng, Thầy lại trích nguyên cả tiếng Tây Tạng bằng phiên âm La tinh. Tôi đọc tới đây cảm thấy choáng váng, vì mình không biết tiếng Tây Tạng, làm sao có thể nói chuyện với Thầy, nhưng cũng may Thầy biết tôi không biết tiếng Tây Tạng, cho nên đã dịch sang tiếng Việt. Như vậy, nếu ai không biết tiếng Tây Tạng như tôi thì mình tạm thời cứ tin vào bản dịch của Thầy làm việc là được rồi.

Thật ra, 4 dịch bản này, tác giả của NC5VĐT cũng đã đề cập trong tác phẩm của mình[1],nhưnng chỉ vì trong lúc viết không tìm được dịch bản của tiếng Tây Tạng, nên không dám đưa vào danh sách thảo luận, chỉ đề cập đến tên của bìa sách mà thôi. Đây là một việc làm thiếu sót, cần rút kinh nghiệm. ”

-Câu trả lời của Giác Dũng :

Thưa Thầy, tác phẩm “Nghiên cứu 5 việc của Đại Thiên ”in năm 2006 không thấy tên của dịch bản tiếng Tây Tạng là gì. Vì cũng có liên hệ đến các câu hỏi sau nên xin hỏi Thầy tên dịch bản Tây Tạng mà Thầy định giới thiệu cùng chung với ba bản Hán dịch của Dị Bộ luận hệ là gì? Thầy có thể cho biết được không ạ?

3Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm này ( : “Không có nhân vật Đại Thiên vào khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt”(ở lời kết), chỉ có một nhân vật Đại Thiên được xuất hiện vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, mà Thầy gọi là “phân phái ngọn”. Phần trong ngoặc kép này là Giác Dũng copy từ đoạn trên xuống, hy vọng không đi ngược lại với ý nghĩa của câu văn) là hợp lý thì một số vấn đề hoài nghi được đặt ra: Trong 2 bản Hán dịch của Ngài Chân Đế (1 người) đều không đề cập nhân vật Đại Thiên sau Phật nhập diệt 100 năm, nhưng tất cả 3 bản dịch đều đề cập đến nguyên nhân dẫn đến nội bộ Tăng già phân chia chính là do ‘5 việc’, nội dung và ý nghĩa của 5 việc này cũng chính là nội dung ý nghĩa của5 việc Đại Thiên. Thế thì vấn đề được đặt ra là:

-Nếu 5 việc sau là do Đại Thiên tạo, còn 5 việc trước do ai tạo ra ?

-Tại sao 2 sự kiện cách nhau đến 100 năm mà nội dung và ý nghĩa của vấn đề lại giống nhau ?

-Sự giống nhau đó có ý nghĩa gì?

-Nếu Thầy phủ nhận Đại Thiên không phải là tác giả của 5 việc sau Phật Niết bàn 100 năm, thì ít ra Thầy cũng phải lý giải nhân vật nào đã đưa ra 5 việc này chứ. Không thể chỉ có 5 việc mà không có người tạo việc. Chúng ta không thể giải quyết theo cách sợ nhà mình nhơ đem rác đổ ngoài đường.

- Câu trả lời của Giác Dũng :

Đáng ra Thầy không nên đưa câu : “Chúng ta không thể giải quyết theo cách sợ nhà mình nhơ đem rác đổ ngoài đường.” này vào đây vì nó không được nghiêm túc và cũng không giúp ích cho cuộc thảo luận của chúng ta. Đúng là khi gặp một trường hợp như thế chúng ta phải đưa ra nhiều giả thuyết như trên và có thể nhiều hơn nữa để giải quyết vấn đề. Câu Thầy ghi :”Không thể chỉ có 5 việc mà không có người tạo việc.” là đúng nhưng không thể đơn giản nói là tìm được tác gỉa của 5 việc đâu thưa Thầy. Thí dụ các câu ca dao tục ngữ của Việt Nam, rõ ràng phải có tác gỉa nhưng bây giờ kêu nghiên cứu để đi tìm tác gỉa của ca dao tục ngữ Việt Nam thì tôi thấy không đơn giản.

4Nguyên văn của Thầy Hạnh Bình :

“Trở lại vấn đề, còn lại bản dịch của Tây Tạng mà Thầy Giác Dũng đã đưa ra trong bài phê bình của mình, với tôi đây là một tư liệu mới, tôi sẽ nghiêm túc nghiên cứu tư liệu này. Trong đó, điểm đặc biệt mà tôi chú ý là vấn đề niên đạicủa các sự kiện lịch sử, nó không khác bản Hán dịch, nhất là bản dịch của Chân Đế cũng ghi sự kiện tranh cãi về 5 việc xảy ra vào năm 100 năm sau Phật Niết bàn, và 200 năm sau Phật Niết bàn lại xảy ra sự tranh cãi về 5 việc do Đại Thiên tạo ra, đồng thời sự kiện xuất hiện vua A dục cũng vào sau năm 100 năm. Những sử liệu được ghi lại trong dịch bản này cũng khác với những gì mà các học giả thường trích dẫn từ bản dịch của Tạng ngữ. Như Lamotte và Andre Bareau đã trích dẫn. Như vậy, phải chăng Tạng ngữ có hai dịch bản? Để trả lời cho câu hỏi này, hiện tại trong tay tôi có một bản dịch khác với bản của Thầy đã đề cập. Bản này có tựa đề là: “Dhe-a Tha-Dad-par Byed-pa Dan Rnam-par-bCad-pa” vốn được dịch từ Phạn văn: “Nikayabheda-vibhangavyŒkhyŒna”, sau đó được 2 người Nhật tên là 寺本婉雅平松友嗣dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Nhật và chú thích, với tựa đề là “Dị Bộ Tông Tinh Thích” (異部宗精釋)[2]. Điều làm tôi ngạc nhiên là tạo sao thầy đi học ở Nhật lại học ngành Phật học mà không biết bản dịch này?”

- Câu trả lời của Giác Dũng :

Thưa Thầy, câu : “Điều làm tôi ngạc nhiên là tạo sao thầy đi học ở Nhật lại học ngành Phật học mà không biết bản dịch này?”này cũng không nghiêm túc. Lần sau xin Thầy đừng hỏi như vậy nữa nếu Thầy thật tâm muốn thảo luận một vấn đề mang tính học thuật. Câu này có cùng một nội dung với câu trả lời số 2 của tôi, tôi xin lập lại, trong phần giới thiệu một dịch bản bằng tiếng Tây Tạng và ba dịch bản Hán văn của hệ thống Dị Bộ Tôn Luân Luận thì phần dịch bản bằng tiếng Tây Tạng bây giờ chắc Thây đã có tư liệu trong tay, vậy Thầy đã quyết định giới thiệu dịch bản nào chưa ạ?

Hôm nay tôi tạm dừng ở đây. Chúng ta thảo luận ngắn gọn nếu tườntg tận, thấu đáo được vấn đề rồi thì chúng ta sẽ sang phần khác. Trong bức thư Thầy gởi cho tôi, còn nhiều điều tôi cần thảo luận trao đổi với Thầy nhưng chúng ta có thể làm từ từ để vừa đọc, vừa còn có thời giờ suy ngẫm.

Chúc Thầy vạn an./.

KT, 19/1/2008

Giác dũng



[1]Hạnh Bình, “Nghiên Cứu về 5 việc của Đại Thiên”, NXB Tôn Giáo Hà Nội năm 2006, trang 17~18.

[2]寺本婉雅等編譯註《異部宗精釋》(Rất tiếc, bản dịch này là bản photo lại của 1 người bạn tặng, không thấy nhà XB và năm xuất bản).

----o0o---

Xem thư trả lời của Thích Hạnh Bình

----o0o---

Trình bày: Vĩnh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2015(Xem: 8064)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 5094)
Một bức ảnh gây xúc động thế giới. Xúc động vì mái tóc đen mướt của em. Vì chiếc áo đỏ, quần xanh em mặc. Vì đôi giày em mang. Cứ như em vừa ăn mừng sinh nhật thứ ba cùng bố mẹ. Và nhất là cái dáng em nằm nghiêng nghiêng trên bờ cát. Nếu không có những ngọn sóng lừng lững đang tiến vào bờ, cứ tưởng như em đang nằm ngủ.
08/07/2015(Xem: 7248)
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã chính thức phán quyết rằng hôn nhân đồng giới tính là quyền hợp pháp trên toàn nước Mỹ. Như vậy tính cho đến nay đã có 21 nước trên thế giới có hôn nhân đồng giới tính được luật pháp quốc gia sở tại công nhận (Netherlands, Belgium, Spain, Canada, South Africa, Norway, Sweden, Portugal, Iceland, Argentina, Denmark, France, Brazil, Uruguay, New Zealand, Britain, Luxembourg, Finland, Ireland) và Hoa Kỳ là nước thứ 21 đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ngày 26 tháng 6 năm 2015 vừa qua. [1] Đồng tính luyến ái (homosexual) được các nhà triết học định nghĩa là những ước muốn tình dục hướng tới những người cùng giới tính đồng thời giảm đi sự thích thú tình dục đối với những người khác giới và hôn nhân đồng giới tính (same-sex marriage) là sự kết hợp giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ.
06/07/2015(Xem: 12845)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
21/06/2015(Xem: 11671)
Trân trọng kính thưa vài lời thương cảm với quê hương nước Việt ! Với chàng Tàu Cọng khồng lồ mà gian ác ! Xin kính dâng vài ý kiến nho nhỏ với các Quốc chủ, và các chủ bài “Yêu Nước” trên mạng, thật bao quát có chiều sâu và chiều rộng về chiến lược, mang tính tồn vong cho thế giới. Ngày nay ai cũng biết hiểm họa chung cho thế giới là TÀ GIÁO VÀ CỌNG SẢN vậy tất cả các quốc gia đều sẽ lâm nguy với hai con bạch tuộc trong Đại Dương nầy, ngày nay.
21/06/2015(Xem: 5544)
Nhiều năm qua, nhân kỷ niệm ngày báo chí VN, cũng như nhiều người khác, cá nhân tôi cũng nhận được không ít lần lời chúc mừng nổng thắm, qua đó mới chợt nhận ra mình đã và đang hoạt động trong lãnh vực báo chí. Nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là báo chí Phật giáo Việt Nam (PGVN). Trong dòng chảy chung của lịch sử báo chí dân tộc, việc nhận được những lời chúc đó âu cũng là điều bình thường, có khác chăng là mình đang ở lãnh vực báo chí PG .
21/06/2015(Xem: 9915)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
19/06/2015(Xem: 6746)
Hòa kết vô thần và tâm linh, thể xác và tinh thần, đạo Phật đã chinh phục trái tim của hàng vạn người Pháp. Nhưng cũng không tránh khỏi một vài cách hiểu sai lệch. Thế giới sẽ bước vào thiên niên kỷ thứ ba không rầm rộ trong tiếng kèn đồng, mà chắc chắn trong âm thanh của các loại kinh cầu nguyện mà thế kỷ 20 tưởng như đã có thể dập tắt được. Đúng vậy, đây là một sự lật ngược thế cờ của tâm linh đối với vật chất, của linh thiêng đối với duy lý, của nhập định đối với thụ hưởng. Một điều kỳ diệu bất ngờ: chúng ta sẽ chứng kiến một sự hỗn độn khủng khiếp mà trong đó, không mảy may nghi ngờ, cái hay song hành cùng cái dở.
14/06/2015(Xem: 9501)
Fake Buddhist monks are the new squeegee men of New York , They’re holy terrors. Bands of beggars dressed like Buddhist monks have invaded the High Line and other city parks, demanding upwards of $40 from tourists — and officials are fed...
14/05/2015(Xem: 7636)
Ngày chủ nhật vừa rồi vào bịnh viện thăm người bạn đạo đang nằm điều trị căn bịnh suy nhược thần kinh (!), người con trai cả của anh, cháu Nguyên Hà Nguyễn Hoài Dũng, hiện cũng là huynh trưởng cấp Tín của GĐPT, chìa ra cho tôi xem một tờ báo bị xé làm đôi. Khi chưa hết ngạc nhiên thì cháu Dũng nói “Hồi sáng này mấy đứa em mua hai gói xôi bắp đem vô cho con và ba con ăn, vô tình con thấy tờ giấy gói xôi có in bản tin này nên ba biều con xếp giữ lại, chờ đưa cho bác”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]