Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

188. Thiền Sư Đại Châu Huệ Hải ( Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng)

21/11/202013:14(Xem: 13456)
188. Thiền Sư Đại Châu Huệ Hải ( Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng)



Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được nghe bài pháp thứ 188 về Thiền Sư Đại Châu Tuệ Hải. Ngài thuộc đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng. Năm sanh của Ngài không được rõ, khoảng cuối thế kỷ thứ 7, đầu thế kỷ thứ 8, đời Đường.

 Ngài là một trong sáu đại đệ tử của Thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhất (709-788), 5 vị đại đệ tử kia là ngài Hoài Hải, Nam Tuyền, Pháp Thường, Trí Tạng & Bảo Triệt.

Ngài họ Châu, quê ở Kiến Châu, ngài xuất gia từ nhỏ với Hòa thượng Đạo Trí ở chùa Đạo Vân tại Việt Châu, sau đó ngài đến tham vấn Thiền Sư Mã Tổ. TS Mã Tổ hỏi: Con từ đâu đến? ngài đáp "con từ chùa Đại Vân xứ Việt Châu đến"

TS Mã Tổ hỏi "Đến đây tính cầu việc gì? "' đáp: - Đến cầu Phật pháp.
TS Mã Tổ hỏi: Kho báu nhà mình không chịu đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? 
Ngài lễ bái và thưa: - Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
TS Mã Tổ hỏi: "Chính nay con hỏi ta là kho báu của con, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài".
Ngay câu này, ngài liễu ngộ và vui mừng lễ tạ. Ngài ở lại tu học với Sư Phụ Mã Tổ sáu năm.


Sư Phụ có kể Ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm,. Ngài để lại bài thơ ngộ đạo nổi tiếng và cùng 1 chủ ý với lời khai thị của Mã Tỗ giúp cho TS Huệ Hải ngộ đạo, đây là bài của TS Điều Ngự Giác Hoàng:


“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.”

Dịch nghĩa:
"Ở đời vui đạo, hãy tuỳ duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền".


Khi nghe Bổn sư của TS Huệ Hải ở quê lâm bệnh, Ngài về quê nhà hầu Bổn sư để trả hiếu. Trong thời gian này, Ngài có viết luận bản " Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn" và người cháu của Ngài lén đem trình lên Mã Tổ, ngài Mã Tổ  xem xong, đã khen ngợi, ấn chứng và thọ ký rằng " nay ở Việt Châu có Đại Châu (viên ngọc châu tròn sáng) và từ đó Ngài có tên là Đại Châu Thiền Sư.

Một pháp sư đến tham vấn hỏi Ngài :”thế nào là Phật”.
Ngài Huệ Hải đáp :”hồ nước trong đối diện chẳng phải Phật là gì?”
Sư phụ giải nghĩa ý của Ngài là Phật sẽ hiện ra nếu như hồ nước trong, nếu nước vẩn đục thì tìm cách làm lắng trong thì Phật xuất hiện.
Pháp sư hỏi :”như vậy Ngài nói pháp gì để độ người”.
Ngài Huệ Hải đáp :”bần đạo chưa từng có pháp gì để độ người “.
Pháp sư đáp :”thiền sư nhà tối như thế ư”. Sư phụ giải thích Ý của pháp Sư chê Ngài Huệ Hải ,nhà tối là vô minh, ngu si.
Ngài Huệ Hải hỏi :”như vậy đại đức nói pháp gì để độ người”.
Pháp sư đáp :”giảng kinh Kim Cang Bát Nhã đã được 20 lần”.
Ngài Huệ Hải hỏi :”kinh nầy ai nói”.
Pháp sư đáp “Thiền sư khéo nói đùa, Ngài không biết kinh Phật sao mà hỏi “.
Ngài Huệ Hải nói “trong kinh Kim Cang, Đức Phật dạy nếu nói Như Lai có nói pháp là không bao giờ thấy Như Lai”
Pháp sư rúng động chịu thua.
Ngài Huệ Hải khai thị :”từ trước tới giờ chưa từng ngộ là mê, âm thanh sắc tướng là giả có, phải trở về bản tâm thanh tịnh, thể tánh tịnh minh, Phật tánh, thường hằng trong tất cả vạn loài chúng sanh”.
Những vị Tổ đều biểu hiện Vô Sư Trí, là Bồ Tát hoá thân, tiếp nối dòng suối pháp của Như Lai trao truyền từ sơ tổ Ca Diếp đến nay không gián đoạn.


Bạch Sư Phụ,
Hôm nay chúng con được SP ban cho một bài pháp rất kỳ diệu của một Thiền Sư không rõ xuất thân và cũng không có ngày thị tịch, nhưng sự chứng đắc rất nhẹ nhàng ngay sau một câu trả lời của Sư Phụ Mã Tổ là tự tìm kho pháp báu bên trong lòng mình, và làm cho một pháp sư rúng động vì hiểu sai nghĩa kinh Kim Cang mà pháp sư đã có giảng 20 lần.


Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm.

(Montreal, Canada)




188_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Hue Hai






Việt Châu
có Đại Châu tròn sáng, thấu suốt !



Kính dâng Thầy bài thơ sau khi được nghe bài pháp thoại tuyệt vời dù yếu nghĩa
rất thậm thâm khó biết đời kiếp nào đốn ngộ được với căn cơ mình . Kính đa tạ và tri ân, HH



“Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài” lời khai thị 
Ngộ huyền chỉ, tự quán sát kỹ càng,  
Sáu năm, về lại phụng dưỡng Bổn Sư ẩn tàng, 
ĐỐN NGỘ NHẬP YẾU ĐẠO  MÔN LUẬN  hoàn mãn.

Việt Châu có Đại Châu thấu suốt tròn sáng !
Kim Cang, Niết Bàn, Duy Ma thiền giáo đồng hành...
Thể tánh tịnh minh chưa từng tử, chưa từng sanh 
Phật Di Đà họ Kiều Thi Ca, cha Nguyệt Thượng 
Mẹ Thù Thắng Diệu Nhan ....từ vô lượng ! 


Nghĩa Như các pháp ...chính gọi Như Lai 
Bồ tát độ chín loài chúng sanh khi niệm hiển bày 
Cầu Đại Niết Bàn “KHÔNG TẠO NGHIỆP SINH TỬ”
Nghe pháp thoại liền tìm về thiền sử,  
Ngưỡng phục Giảng Sư căn cơ hẳn thượng thừa 
Mượn ngôn ngữ phương tiện diễn giảng tích xưa 
Tác Như Lai sự ...may mắn người Vô Sự !

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 

Huệ Hương 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/06/2011(Xem: 26219)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Giọng niệm: HT Thích Hạnh Hòa, TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng www.quangduc.com
13/06/2011(Xem: 11048)
Audio: Thiền Tập, bài giảng của TT Tâm Thành
23/04/2011(Xem: 4211)
Tại sao phải hành sám hối? Tôi nhận thức rằng muốn nghĩ đến vãng sanh Tịnh Độ cần phải sám hối trước, phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh.
01/04/2011(Xem: 3850)
Mấy ngày trước, có một đồng tu đến kể với tôi rằng ông gặp một câu hỏi khó như sau: “Các vị là người học Phật, vậy chân thật có Phật hay không? Anh đã bao giờ thấy Phật chưa?” Ông không thể trả lời, liền trở về hiệp hội hỏi tôi, để về sau nếu gặp câu hỏi này thì nên trả lời như thế nào? Tôi nói với ông ấy, giả như về sau lại có người hỏi như thế thì ông nên nói với họ: “Thật có Phật, tôi đã thấy qua rất nhiều”. Họ sẽ hỏi ở đâu.
24/02/2011(Xem: 25931)
8 Điểm Gặp Gỡ Kinh Nam và Bắc Tạng - HT Thích Chơn Thiện giảng
24/02/2011(Xem: 7932)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
22/02/2011(Xem: 4121)
I. GIỚI THIỆU: Kỳ-na giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo phi Phệ-đà và có những đặc điểm của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một phong trào chống lại chủ trương tế lễ của Bà-la-môn giáo và tính thẩm quyền của Phệ-đà.
18/02/2011(Xem: 5355)
Bà La Môn là phiên âm của từ Brahman, sau nầy biến cải thành đạo Hindu, một tôn giáo chính của Ấn độ ngày nay, nên ngày nay gọi là Ấn Độ giáo. Đặc biệt Bà La Môn hay Ấn Độ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ.
08/02/2011(Xem: 3766)
Mahamangala Sutta thuộc Sutta Nipata II, Tiểu Bộ kinhI, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch là Kinh Phước Đức,Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Điềm Lành Lớn (Kinh Đại Hạnh Phúc), một bản kinh cầu phước đức rất nhiệm mầu, hiệu ứng an lành đích thực cho những ai tụng đọc, thực hành và ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Vào các ngày đầu xuân, những người con Phật lên chùa dâng hương cầu nguyện, mong ước một năm mới bình an, thịnh vượng. Bên cạnh việc lễ bái, cầu nguyện, cúng dường v.v..., nếu người nào hữu duyên được đọc tụng và hành trì theo kinh Phước Đức thì chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo vạn sự cát tường như ý.
05/01/2011(Xem: 13218)
Lễ Thù Ân Giọng tụng: HT Thích Quảng Bình (HT Thích Quảng Bình lễ Thù Ân tại Tu Viện Quảng Đức ngày 5/11/2011)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]